Thiền định là gì? Có mấy loại thiền định?

Related Articles

Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát trọn vẹn, cần phải tu cả phước lẫn huệ. Trong bốn độ trước của lục độ mà tất cả chúng ta đã học, chỉ nói về tu phước. Trong hai độ ở đầu cuối là ‘ Thiền định và Trí huệ ‘, tất cả chúng ta sẽ học về tu huệ .Trước tiên, tất cả chúng ta hãy khám phá tánh cách quan trọng và giá trị của Thiền định.

Định nghĩa về thiền định?

Thiền định là gì? Thiền phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền na, xưa dịch là tư duy, nay các học giả dịch là Tĩnh lự. Tu Tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp.

Còn chữ Ðịnh phiên âm theo tiếng Phạn là Tam muội (Samadhi), có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định nghĩa chung: Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán loạn, để tâm thể được vắng lặng và cho tâm dụng được mạnh mẽ, hầu quan sát và suy nghiệm chân lý.

CEO tại Thung lung Silicon bật mý bí kíp thiền định để thoát khỏi trầm cảm, tăng hiệu suất cao việc làm Thiền định có thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự.

Thiền định có thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự.

Các loại thiền định

Thiền định hoàn toàn có thể gọi là một trạng thái của tâm ý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự. Song ở Dục giới, tâm ý không hề có được trạng thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô sắc giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Ðịnh thuộc về Vô sắc giới. Ở mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp bực từ thấp lên cao, cho nên vì thế có danh từ là Tứ thiền và Tứ định. Tứ thiền và Tứ định này, tuy là tác dụng của công phu tu tập Thiền định, hay gieo trồng thiện căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật pháp, cả Thế gian pháp, cả Thánh cả Phàm. Nói rõ hơn, là dù theo giải pháp đạo Phật hay chiêu thức nào, nếu có đường lối, có công phu thì đều hoàn toàn có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định ; nhưng đây cũng chỉ là Thế gian pháp mà thôi. Còn nói về pháp Ðịnh của chư Phật, Bồ tát và A-la-hán thì khác. Ðó là Thiền định thuộc Xuất thế gian pháp, không hề phát hiện trong khoanh vùng phạm vi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được. Muốn đạt đến trạng thái Tĩnh lự của những bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát ly tam giới. Còn lẩn quẩn trong tam giới thì tâm ý chỉ hoàn toàn có thể đạt đến Tứ định là cùng. Muốn có được Tứ thiền và Tứ định, chỉ phải thoát ly và đoạn diệt phiền não ở Dục giới. Nhưng nếu muốn đạt những pháp Ðịnh vô lậu, thì phải diệt trừ tổng thể những phiền não của Vô sắc giới. Trước khi mong đến được Ðịnh vô lậu, phải cần đến Thiền, chính do Thiền là cơ bản của Ðịnh. Có được ngũ nhãn, lục thông cũng nhờ Thiền. Vả lại, Thiền có hiệu quả thẩm sát, nghiên cứu và điều tra. Nếu muốn ý niệm chân lý, tất phải nhờ đến Thiền do đó Thiền là pháp tối yếu cho kẻ học đạo. Mỗi ngày bạn nên nỗ lực làm sạch cỏ dại trong tâm mình Ðứng về phương diện những trình độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau : 1. Thế gian thiền. Thiền này có hai loại : Căn bản vị thiền và Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, phân làm ba : Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không. Người phàm chán cảnh tán loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn phước lớn thì tu Tứ vô lượng. Kẻ nhàm chán cảnh sắc giới chật hẹp thì tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này hoàn toàn có thể làm cơ bản cho thiện pháp xuất thế gian, nên gọi là Căn bản thiền. Với lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa thích cảm xúc lạc thọ của Thiền, nên gọi là Căn bản vị thiền. Căn bản vị thiền, phân làm hai : Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có huệ tánh nhiều thì tu Lục diệu môn, kẻ nào có định tánh nhiều thì tu Thập lục đặc thắng. Những ai có huệ tánh và định tánh đều nhau thì hoàn toàn có thể tu cả hai loại. Vì người ta hoàn toàn có thể địa thế căn cứ vào pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ thuần hữu lậu, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là Căn bản tịnh thiền. Tuy nhiên, cả hai loại đều chỉ là trần gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng thế, phép Thiền này đã có. Thiền định được chia làm ba loại

Thiền định được chia làm ba loại

2. Xuất thế gian thiền. Pháp Thiền này là của bậc xuất thế. Có bốn thứ Thiền quán : Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn Thiền quán này, tuy là lấy những pháp hữu vi làm đối tượng người tiêu dùng suy nghiệm, nhưng hoàn toàn có thể đi đến tác dụng ly dục, phát sinh vô lậu trí, nên gọi là Xuất thế gian thiền. 3. Xuất thế gian thượng thượng thiền. Ðây là pháp Thiền cao tột của những bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì có giải về chín môn đại thiền này như sau : – Một là “ Tự tánh thiền ”, nghĩa là quán sát thật tướng của tự tâm, không cần lấy đối tượng người dùng ngoại cảnh. – Hai là “ Nhất thiết thiền ”, có công suất tự hành và hóa tha. – Ba là “ Nan thiền ”, môn Thiền gian truân, thâm diệu, khó tu .

– Bốn là “ Nhất thiết môn thiền ”, có nghĩa là tổng thể những pháp Thiền định đều do môn ( cửa ) này mà phát xuất. – Năm là “ Thiện nhân thiền ”, môn Thiền của những chúng sinh có đại thiện căn cùng tu. – Sáu là “ Nhất thiết hạnh thiền ”, bao nhiếp tổng thể hạnh pháp của Ðại thừa. – Bảy là “ Trừ não thiền ”, có năng lượng trừ diệt phiền não, khổ đau cho chúng sinh. – Tám là “ Thử thế tha thế lạc thiền ”, có năng lượng làm cho chúng sinh an nhàn trong hiện tại và tương lai. – Chín là “ Thanh tịnh tịnh thiền ”, có năng lượng đoạn trừ trọn vẹn những hoặc nghiệp, và chứng được Tịnh báo đại Bồ đề. Ðến môn Thiền này, tâm ý trọn vẹn thanh tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng thanh tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.

Công năng của thiền định 

Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định.

Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định.

Bình an trong từng hơi thở là bình an trong đời sống Theo Bồ tát hạnh, hoàn toàn có thể tu tập Thiền định và đạt đến mười hiệu quả tốt đẹp sau đây : – Một là được an trụ trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp thức mà hành trì, như vậy trải qua một thời hạn khá lâu, thì ngũ căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi. – Hai là được thực hành thực tế cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm từ bi, yêu dấu chúng sinh, muốn cho tổng thể được an ổn. – Ba là không còn phiền não. Nhờ năng lượng Thiền định mà những phiền não tham, sân, si, không còn phát sinh nữa. – Bốn là gìn giữ được những giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động. – Năm là vui tươi lạc thú. Xem Thiền định là một món ăn ngon lành hơn tổng thể những món ăn khác trong trần gian. – Sáu là xa lìa được ái dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát sinh và làm nhiễm trước được nữa. – Bảy là tuy chứng được chân không, nhưng không khi nào bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư vô. – Tám là cởi mở được tổng thể những dây trói buộc sự giải thoát. – Chín là khai phát được trí huệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật.

– Mười là đạt đến sự giải thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả các hoặc nghiệp không còn nhiễu loạn được nữa.

Chúng ta hoàn toàn có thể tóm tắt thành quả tốt đẹp của Thiền định như sau : Ngũ căn được tự tại, phiền não được dứt trừ, từ bi được lan rộng ra, trí huệ được phát chiếu, cảnh giới giải thoát được phô bày ra trước mắt. Một pháp môn có công suất quí báu, có diệu dụng khác thường như vậy, làm thế nào tất cả chúng ta hoàn toàn có thể bỏ lỡ được ? Mong rằng vì những quyền lợi thiết thực nói trên, quí vị Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định này cho chóng có hiệu quả.

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories