Vọng tưởng là gì do đâu mà có?

Related Articles

Người học Phật không xa lạ gì với danh từ vọng tưởng, nhưng mọi người có thực sự hiểu hết ý nghĩa sâu xa của từ ngữ này hay không? Tôi cảm thấy nghi ngờ, nên hôm nay viết bài này để cùng nhau xem xét cho thật kỹ vọng tưởng thật sự là gì.

Vọng tưởng không phải chỉ là những tưởng tượng không có thật, không khách quan, vu vơ, phù phiếm, mà tất cả nhận thức của bộ não đều là vọng tưởng, kể cả những cố thể vật chất mà chúng ta thấy chung quanh mình như : thân thể tứ đại của mình, nhà cửa, xe cộ, vật dụng, đồ dùng, lương thực, thực phẩm, đất trời, núi sông, biển đảo.

Tại sao vật chất cũng là vọng tưởng? Vì như kinh điển Phật pháp đã nói, các pháp không có tự tính. Trong kinh Duyên Khởi Tính Không 緣起性空 có nói:

一切法由於無自性 , 因此得以隨緣幻現 ; 幻現的一切法 , 雖然歷歷在目 , 但卻如夢幻泡影 、 如露亦如電 ( Nhất thiết pháp do ư vô tự tính, do thử đắc dĩ tùy duyên huyễn hiện ; huyễn hiện đích nhất thiết pháp, tuy nhiên lịch lịch tại mục, đãn khước như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện. ) Nghĩa là : Tất cả những pháp do không có tự tính, do đó những pháp tùy duyên mà hiện ra một cách huyễn ảo ; tổng thể những pháp huyễn ảo, tuy sờ sờ trước mắt nhưng giống như giấc mơ huyễn ảo, như bọt nước. như giọt sương hay như điện chớp.

Không có tự tính là thế nào ? nghĩa là vật dù nhỏ như hạt photon hay hạt electron hoặc to lớn như Trái đất, Mặt trăng đều không có thuộc tính ( properties ) gì hết, không có đặc thù hay đặc thù gì cả. Mọi đặc thù, đặc thù của vật đều do chủ thể quan sát gán ghép cho vật, nghĩa là tưởng tượng về vật. Sự tưởng tượng này dựa trên điều kiện kèm theo ( tùy duyên ), đó là mối quan hệ tương tác giữa lục căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và bộ não ) và lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ). Cả lục căn và lục trần đều cấu trúc bằng những hạt ảo mà thời nay khoa học gọi là hạt cơ bản ( elementary particles ) như quark, electron, photon … Theo quy mô chuẩn vật lý hạt tân tiến thì có 17 loại hạt ảo như vậy, được đúc rút trong bảng sau :

Quarks là nhóm hạt nặng tạo ra hạt nhân của nguyên tử như hạt proton và hạt neutron. Đây là những hạt rất vững chắc. Tuổi thọ của hạt proton tự do là 1035 ( 10 lũy thừa 35 ) năm nghĩa là vô cùng vĩnh viễn. Tuổi thọ của hạt neutron tự do chỉ từ 10-15 phút, sau đó nhanh gọn phân rã thành hạt proton.

Leptons là nhóm hạt nhẹ trong đó phổ cập nhất là hạt electron quay chung quanh nguyên tử, tạo ra lớp vỏ nguyên tử. Electron vận động và di chuyển trên những quỹ đạo không thay đổi. Khi tăng hay giảm nguồn năng lượng bằng cách nung nóng hay để nguội, electron sẽ nhảy lên quỹ đạo tầng trên hay nhảy xuống tầng dưới gọi là bước nhảy lượng tử ( quantum leap ). Khi electron nhảy xuống tầng dưới, nó giải phóng một số ít nguồn năng lượng dưới dạng ánh sáng có sắc tố rất đặc trưng. Điều đặc biệt quan trọng là nó biến mất ở tầng trên và bất thần Open ở tầng dưới, hoặc ngược lại, mà không có sự di dời giữa hai quỹ đạo, nghĩa là không hề thấy nó đi từ quỹ đạo này qua quỹ đạo kia.

Bước Nhảy Lượng Tử – Quantum Leap

Forces là nhóm hạt truyền lực tạo ra liên kết. Gluon là hạt tạo ra lực tương tác mạnh, photon là hạt tạo ra lực tương tác điện từ. Hạt W và hạt Z là hạt tạo ra lực tương tác yếu. Photon và những hạt W và Z hoàn toàn có thể coi là thành phần của một lực thống nhất gọi là tương tác điện-yếu ( electroweak interaction ).

17 loại hạt cơ bản trong Mô hình chuẩn của Vật lý hạt (Standard Model of Particle Physics)    

Theo nhà vật lý nổi tiếng Niels Bohr, những hạt cơ bản này đều là hạt ảo khi bị tách riêng, nghĩa là chúng không hề độc lập sống sót. “ Isolated material particles are abstractions ” ( Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng – tức không phải vật thật ). Và theo nhà vật lý nổi tiếng khác là Werner Heisenberg, người đã ý tưởng ra nguyên tắc bất định : “ Atoms and elementary particles … form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts … atoms are not things ” ( Nguyên tử và những hạt cơ bản … hình thành một quốc tế tiềm thể hay có năng lực hiện hữu, chứ không phải một quốc tế của vật thể hay sự vật có thật … Nguyên tử không phải là vật ).

Ý kiến của hai nhà khoa học nêu trên đã nói một cách rõ ràng rằng cái gọi duyên 緣 trong Phật pháp, tức điều kiện kèm theo để cho vật huyễn hiện 幻現 chính là những nguyên tử tiềm thể ( potentialities ) này. Nguyên tử không phải là vật mà chỉ là tiềm thể. Các tiềm thể này chỉ hiển hiện thành vật khi tương tác với lục căn, nghĩa là dưới 6 giác quan của con người, thì những hạt cơ bản và nguyên tử vốn chỉ là sóng tiềm năng phi vật chất, liền hiện hình thành vật chất. Điều này được xác nhận trong thí nghiệm hai khe hở rất nổi tiếng từ một thế kỷ nay.

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Trong thí nghiệm này, hạt electron nếu không bị quan sát thì nó sẽ hành xử như là sóng, còn khi bị quan sát thì nó mới biến thành hạt vật chất. Điều này đã làm sững sốt những nhà khoa học khi họ phát hiện ra đặc thù kỳ bí này của lượng tử.

Tất cả những pháp đều không có tự tính ( nhất thiết pháp vô tự tính 一切法無自性 ) những đặc tính của vật là do người khảo sát gán ghép cho vật chứ nó không có sẵn, đây là một chủ đề tranh cãi rất lớn giữa hai nhà khoa học số 1 quốc tế là Niels Bohr và Albert Einstein. Bohr nghiêng về lập trường pháp không có sẵn tự tính, còn Einstein theo đuổi lập trường vật phải có sẵn tự tính, tự tính đó là khách quan. Lúc hai ông còn sống, không ai biết làm cách nào để xác lập xem ai đúng ai sai. Đến năm 1964, một người Ái Nhĩ Lan tên là John Bell nghĩ ra một phương trình toán học gọi là bất đẳng thức Bell, tích hợp với thực nghiệm hoàn toàn có thể xử lý được yếu tố, tuy nhiên lúc đó chưa có đủ máy móc tinh xảo để thực thi. Năm 1967, một nhà vật lý trẻ người Mỹ tên là John Clauser, vốn ủng hộ lập trường của Einstein, đã thực thi sản xuất một cỗ máy có năng lực tạo ra những cặp hạt link ( entangled ) tạo điều kiện kèm theo cho thực nghiệm. Đến năm 1982, tại Paris, một nhà vật lý khác là Alain Aspect sử dụng chiếc máy của Clauser triển khai một cuộc thí nghiệm quan trọng, và vận dụng bất đẳng thức Bell, đi vào điểm trung tâm của cuộc tranh luận để xử lý một lần cho dứt khoát xem lập luận nào đúng. Kết quả khiến cho John Clauser tuyệt vọng, vì ông không lật đổ được cơ học lượng tử, lập trường của Niels Bohr đúng với tác dụng thực nghiệm, còn Einstein thì sai. Xim xem video diễn đạt cuộc tranh luận này :

Tranh Luận Giữa Bohr Và Einstein Về Cơ Học Lượng Tử

Từ cuộc thí nghiệm này, người ta rút ra được hai Tóm lại rất là quan trọng về mặt vật lý cũng như về mặt triết học :

Một là vật không có thật ( phi hiện thực, non realism ) vật chất chỉ là huyễn ảo, là vọng tưởng của con người, những đặc tính của vật đều là do con người gán ghép cho vật.

Hai là vật không có vị trí nhất định ( bất định xứ, non locality ), điều này có nghĩa là khoảng trống là do con người tưởng tượng, những vị trí trong khoảng trống cũng chỉ là tưởng tượng nhưng con người cảm thấy rất thật, vì thế tầm cỡ mới nói đó là vọng tưởng. Hiện tượng link lượng tử ( quantum entanglement ) là vật chứng cho thấy rõ khoảng cách khoảng trống là không có thật. Ví dụ khoảng cách giữa Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội tất cả chúng ta cảm thấy rất là chân thực, rất xác lập là 1146 km, muốn đi từ TP HCM ra TP. Hà Nội, tất cả chúng ta phải lên phi cơ, bay khoảng chừng 1 giờ 45 phút mới đến nơi. Nhưng thật ra khoảng cách 1146 km chỉ là vọng tưởng, không có thật. Các nhà khoa học đã nghĩ tới phương pháp viễn tải lượng tử, mô phỏng theo hiện tượng kỳ lạ link lượng tử, xin xem video minh họa sau đây :

Viễn Tải Và Máy Tính Lượng Tử – Quantum Teleportation And Computer

Một buồng hạt ở Thành Phố New York và một buồng hạt ở Paris, hai nơi cách xa nhau 5834 km. Một người bước vào buồng hạt Thành Phố New York, trong tích tắc, bước ra khỏi buồng hạt Paris, không mất thời hạn vận động và di chuyển qua khoảng cách 5834 km, chính do khoảng cách đó chỉ là vọng tưởng, không có thật. Phương thức này gọi là viễn tải lượng tử ( quantum teleportation ).

Năm 2012, Maria Chekhova của Đại học Moscow hoàn toàn có thể làm cho một photon Open ở 100.000 vị trí khác nhau trong khoảng trống, nghĩa là tạo ra 100.000 link lượng tử. Một hạt photon biến thành 100.000 hạt. Đây cũng không phải là số lượng số lượng giới hạn, không có số lượng giới hạn nào cả. Một hoàn toàn có thể biến thành vô số lượng. Từ đây khoa học hoàn toàn có thể rút ra Kết luận quan trọng thứ ba : số lượng không có thật ( phi số lượng, non quantity ). Thuyết Big Bang chính là một dẫn chứng của phi số lượng, thiên hà ban sơ chỉ là một hạt vô cùng nhỏ, nhỏ hơn hạt electron rất nhiều lần, cái hạt vô cùng nhỏ bé đó đã tạo ra ngoài hành tinh to lớn thời nay.

Tóm lại, chính vì những pháp chỉ là vọng tưởng, vật không có thật, nên khoảng trống, thời hạn và số lượng đều chỉ là khái niệm, là vọng tưởng, không có thực ra. Chúng ta hãy nghe lại Thầy Duy Lực đã nói về yếu tố này như sau :

Tóm tắt quá trình phát sinh vọng tưởng bằng một thí dụ cụ thể. Đây là một tô mì:

Tô mì chỉ là vọng tưởng, nhưng so với những giác quan của con người thì tô mì rất thật.

Bản chất của tô mì chỉ là những hạt ảo như quark, electron, photon … Chúng tạo ra cấu trúc nguyên tử và phân tử, đó là những tiềm thể không phải là vật chất, chúng không có thuộc tính, không có đặc thù gì cả. Nhưng chúng đóng vai trò là lục trần ( 6 thứ đối tượng người dùng, objects ) tương tác với lục căn ( 6 giác quan ) phát sinh ra lục thức ( thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc tiếp xúc và ý thức phân biệt ). Lục thức chỉ là thói quen cảm nhận hình thành từ truyền kiếp gọi là thế lưu bố tưởng, chính cái thói quen tưởng tượng này tạo ra cảm xúc. Đó là một loại phản ứng có điều kiện kèm theo mà nhà khoa học Nga Ivan Petrovich Pavlov đã thực thi với con chó vào thập niên 1890. Trước mỗi lần cho chó ăn, ông ta đánh một tiếng kẻng, thói quen này hình thành một phản ứng sinh lý ở con chó. Mỗi khi nghe tiếng kẻng dù không cho ăn, dạ dày nó cũng tiết ra dịch vị, đó là một phản ứng theo thói quen.

Tương tự như vậy, mắt nhìn thấy tô mì lúc đói bụng thì cảm thấy muốn ăn. Mũi khi ngửi thấy mùi thức ăn thì cảm thấy thơm phức mê hoặc ; lưỡi khi tiếp xúc với sợi mì thì cảm thấy dai dai dòn dòn, tiếp xúc với nước mì thì cảm thấy vị mặn, tiếp xúc với ớt thì cảm thấy cay. Tất cả cảm xúc đó chỉ là vọng tưởng, chính do tô mì chỉ là những hạt ảo, không có thực ra, cũng không có bất kể một đặc thù gì cả, như đã được khoa học lý giải rõ ràng ở phần trên. Thế mà con người vẫn cảm thấy ăn ngon, no bụng, mùi vị mê hoặc, và vẫn được khung hình tiêu hóa, được phân phối nguồn năng lượng, tăng trưởng. Tất cả đều là tưởng tượng nên tầm cỡ gọi là vọng tưởng. Toàn bộ con người cũng như quốc tế chung quanh, đều được tầm cỡ miêu tả bằng cụm từ : ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm thứ tích hợp gồm : sắc ( vật chất ), thọ ( cảm nhận ), tưởng ( tưởng tượng ), hành ( hoạt động ) và thức ( phân biệt, phân biệt ) đều là không.

Sở dĩ ngũ uẩn giai không là vì vật chất chỉ là cấu trúc ảo, hình thành từ những hạt ảo, chúng tạo ra cấu trúc nguyên tử và phân tử chỉ là tiềm thể, mà khoa học thời nay lý giải bằng hai khái niệm : Trường ( Field ) và Vũ trụ Toàn ảnh ( Holographic Universe ) như trong video sau đây :

Universe 3 – Trường và Nguyên Lý Toàn Ảnh – Phụ đề Việt ngữ

Trường là thực trạng bản nguyên của ngoài hành tinh, không phải là vật chất, nó chỉ là dạng sóng phi vật chất, dạng tiềm thể của vật chất. Chỉ khi tiếp xúc với lục căn, chính lục căn lựa chọn những sóng với tần số thích hợp để tạo ra vật thể ( lục trần ) và lục căn tương tác với lục trần để phát sinh ra thọ, tưởng, hành, thức.

Vũ trụ Toàn ảnh là một ảnh ảo trong khoảng trống 3 chiều. Các vật thể trong ngoài hành tinh chỉ là thông tin từ một toàn ảnh trên mặt phẳng 2 chiều, phóng hiện thành 3 chiều. Khi phóng hiện thành 3 chiều, do tăng size của ảnh nên có một độ nhòe, độ nhòe đó bộc lộ ra thành tiếng ồn toàn ảnh mà nhóm GEO600 đã phát hiện ra vào năm 2012.

Kết luận

Toàn bộ đời sống của con người trên trần gian, cũng như của chúng sinh trong Tam giới đều chỉ là vọng tưởng. Các bậc giác ngộ kiến tánh chính là tự mình xác nhận điều đó. Khi đã tự mình xác nhận, phá được hết tổng thể tập khí ( thói quen ) vọng tưởng thì hoàn toàn có thể có 6 thần thông. Một số nhà đặc dị công suất hoàn toàn có thể chưa giác ngộ, nhưng do rèn luyện, phá được một phần những tập khí truyền kiếp, cũng hoàn toàn có thể có thần thông, làm được những việc siêu nhiên như Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý từng màn biểu diễn.

Truyền Bình

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories