Tính nhạc của thơ và thơ phổ nhạc :: Suy ngẫm & Tự vấn :: https://blogchiase247.net

Related Articles

1. Thơ là nhạc của tâm hồn

Tiếng nói trong thơ là tiếng nói đầyâm nhạc, tiếng nói có nhịp điệu- nhịp điệu của những âm thanh vật chất, củatiếng nói thực tế hoà với nhịp điệu cảm xúc bên trong tâm hồn nhà thơ. Thơ lànhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn quảng đại và đa cảm. Tính nhạc được tạonên bởi những âm hưởng gắn liền với hình ảnh, cảm xúc do sử dụng phối hợp âmthanh, nhịp điệu, từ ngữ… phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm được biểuđạt.



Mỗi dân tộc, mỗi một ngôn ngữ đều có cách hoà âm riêng. Trong ngôn ngữ, thơ cóđặc điểm về tính nhạc, nhưng ngôn ngữ âm nhạc không phải là một bộ phận củangôn ngữ thơ mà là một chỉnh thể tồn tại độc lập với nó. So với văn xuôi, ngônngữ thơ giàu nhịp điệu, ngữ điệu, quãng cách và hoà âm. Mối quan hệ giữa nội dungvà hình thức trong ngôn ngữ và trong âm nhạc hoàn toàn khác nhau. Số lượng từtrong ngôn ngữ rất lớn, trong khi phạm vi một khuông nhạc chỉ có 8 nốt (mi, fa,sol, la, si ,đô, rê, mi), được nâng lên hạ xuống tối đa một quãng tám từ mộtnốt nào đó. Như vậy, một nốt nhạc được dùng chung cho nhiều từ, cho nhiều ngônngữ, tiếng nói khác nhau.

Đặc điểm tiếng Việt giàu nguyên âm,phụ âm, thanh điệu. Ngôn ngữ thơ ca giàu nhịp điệu ,phong phú về cách hoà âm, tiết tấu, từ láy, tính tượng hình, chính là thứ ngônngữ có cơ cấu dễ làm chỗ dựa cho các phương pháp diễn đạt âm nhạc. Mang đặcđiểm đơn âm, độ dài âm tiết ngắn, tách rời, tiếng Việt có ưu thế tính nhạc sovới các thứ tiếng có số lượng nguyên âm, phụ âm ít hơn và không thanh điệu. Mộtâm tiết tiếng Việt bao giờ cũng được biểu thị bằng một nốt nhạc hoặc vài nốtnhạc luyến láy, làm cho ca từ “tròn vành rõ chữ” khi nhạc sĩ đặt lời.

Thơ và âm nhạc đều lấy trữ tình làmphương thức thể hiện. Thơ gợi cảm hứng, khơi nhạc hứng cho nghệ sĩ. Nhờ phongphú về nhịp điệu, cách hoà âm, tiết tấu, từ láy âm, tượng hình…ngôn ngữ thơ làngôn ngữ giàu tính nhạc hơn bất cứ ngôn ngữ ở thể loại nào khác. Thơ để phổnhạc có những yêu cầu riêng, trong đó ca từ cần đạt tới độ chuẩn.

Thơ và nhạc có những điểm tươngđồng. Nói như vậy, nhưng không có nghĩa thơ của bất kể nhà thơ nổi tiếng nàocũng hoàn toàn có thể phổ nhạc. Nhạc sĩ khá kén khi chọn thơ phổ nhạc. Dẫu là nhà thơchính luận trữ tình có tên tuổi, nhưng thơ Chế Lan Viên rất khó phổ nhạc, ítđược phổ nhạc, và nếu được phổ nhạc thì cũng khó thành công xuất sắc .Âm nhạc là thẩm mỹ và nghệ thuật của âm thanh, đảm nhiệm theo thời hạn và cũng trôi đi theo thời hạn. Không tinh nhạy nhưthị giác, nhưng qua âm thanh của nhạc, hình ảnh, hình tượng muôn màu cuộc sốnghiện lên trong tâm hồn con người, gợi giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Là lời nói tình cảm, phản ánh những cung bậc tình của con người, âm nhạc tìm đến thơ như tìm đếnngười bạn tri âm, cùng phương pháp biểu lộ. Ca từ của ca khúc phải nhờ có sứcgợi mở, lay thức quốc tế nội tâm. Tiết nhịp của thơ có quy luật trọng âm ( GS.Dương Viết Á ). Đó là cách ngắt nhịp dồn ở thanh điệu tiếng cuối trong câu thơ .

Theo cách đó, nhạc sĩ Nguyễn VănThương nhờ độ cao thấp, nhịp nghỉ, ngắt, độ dài, ngắn của bài thơ Vui thếhôm nay (Tố Hữu) đã phổ nhạc thành ca khúc Tổ quốc tôi chưa đẹp thế baogiờ. Các nốt nhạc thể hiện niềm hân hoan trong ngày đại thắng của dân tộc.

Một cách tự nhiên, Hoàng Nhuận Cầmluôn tiềm ẩn một sóng nhạc uyển chuyển trong những vần thơ nhập trận: Chiếcnhạc trên cổ la rung rung/ Đã sáu năm là bài hát của rừng/ Có những con đườnghoang dại lắm (Anh bộ đội và tiếng nhạc la).

Thanh điệu – yếu tố quan trọng tạonên nhạc điệuThanh nhạc là tác dụng quy trình pháttriển của tiếng Việt, là một yếu tố góp thêm phần tạo nên ngôn từ. Ngữ điệu trongngữ pháp tự nó ở ngoài nội dung của từ, ở ngoài quan hệ của lời nói đối vớihiện thực ; là nói giọng cất cao hay xuống thấp ; là khoảng trống và thời hạn củasự sống Cơ sở của ngôn từ là sự xác lập luân phiên của giọng cất cao lên vàhạ thấp xuống, đem lại sắc thái tư tưởng của câu. Quy luật của thanh điệu phảituân thủ khắt khe luật bằng trắc, niêm luật và đối thanh, đối ý. Các dấuhuyền, sắc, nặng, hỏi, ngã và không dấu đã cố định và thắt chặt cao độ trong những từ tiếngViệt, thành những cung bậc nhất định. Thanh góp phần vào việc tổ chức triển khai ngữ điệuthơ Nước Ta. Trong những vế nhịp những thanh có sự luân phiên đối xứng nhau về âmđiệu, đặc biệt quan trọng ở những chữ cuối nhịp. Dực trên ba cung bậc tiêu chuẩn của cácthanh trong tiếng Việt, nhạc sĩ Lê Yên ghi thành ba nốt nhạc sau đây :

Âm khu cao Sắc, ngã

Âm khu trung Không dấu

Âm khu trầm Huyền, hỏi, nặng

Cách hoà âm trong thơ Việt Nam làcách hoà phối các thanh điệu, các cách kết hợp âm thanh theo một kiểu nhấtđịnh. Có thể thấy, từ một bài thơ, nhưng cách tổ chức âm thanh khác nhau sẽ chokết quả hoàn toàn khác nhau. Có thể kể đến trường hợp bài thơTình em(HồNgọc Sơn) đã tạo cảm hứng cho nhạc sĩ như: Hoàng Vân, Hoàng Việt, Phan HuỳnhĐiểu và Huy Du, nhưng cuối cùng chỉ ca khúc do Huy Du phổ nhạc mới có sức sốnglâu bền trong đời sống âm nhạc.

Dựa trên bài thơ Năm anh em trênmột chiếc xe tăng (Hữu Thỉnh) vốn được phối xen bằng trắc nhịp nhàng, nhạcsĩ Doãn Nho đã tạo nên sóng nhạc hùng ca trong ca khúc cùng tên.

Bài thơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây (Phạm Tiến Duật) được nhạc sĩHoàng Hiệp sử dụng nguyên vẹn cặp hình ảnh sóng đôi (anh/em, lên/xuống,đông/tây) cùng cách phối thanh nhịp nhàng, cân đối vừa có chất tráng ca, vừađậm chất trữ tình:

Anh lên xe trời đổ cơn mưa/ Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ/ Em xuống núi nắngvề rực rỡ / Cái nhành cây toả mối riêng tư.



Nhờ sử dụng âm thanh hoà phối, câu thơ đã mang trong nó chất nhạc. Tuy nhiên,không phải mỗi thanh điệu sẽ ứng với một nốt nhạc nhất định. Chính vì khôngtrung nhau giữa nốt nhạc và thanh điệu, nên đã có hiện tượng giao thoa. Mộtthanh điệu có thẻ ứng với một, hoặc vài nốt nhạc. Ngược lại, một nốt nhạc cũngcó thể ứng với một thanh điệu hay một vài thanh điệu khác nhau. Như vậy, độ cao(âm vực) của thanh điệu không phải là cái tương ứng với độ cao của âm nhạc.

2. Thơ phổ nhạc giai đoạn 1954-1975

Trong hai cuộc kháng chiến, số lượngthơ được phổ nhạc nhiều nhất thuộc về thơ chống Mỹ. Thơ vừa sinh ra đã tạo cảmhứng cho âm nhạc cùng chung trách nhiệm Tiếng hát át tiếng bom. Thơ làm nền chonhạc, nhạc cất cánh cho thơ. Sự gặp gỡ giữa thơ và nhạc là sự cộng hưởng củatình yêu. Những ca khúc sinh ra trở thành lời nói đồng điệu của hàng triệu contim nhiều thế hệ. Thơ đã làm sống dậy những ca khúc ở chính thời gian ấy, hoặcsau đó .

Gánh trên vai trách nhiệm “kép”:Nhạc sĩ- Thi sĩ, họ là người đã chắp cánh lịch sử cách mạng bằng ca khúc. Nhữngca khúc ấy đã góp phần động viên, xốc dậy tinh thần và làm nức lòng nhân dân 2miền Nam Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đó là: Giải phóng miền Nam(Huỳnh Minh Siêng- bút danh của Lưu Hữu Phước), Cùng hành quân giữa mùa xuân(Cẩm La), Chiếc gậy Trường Sơn (Phạm Tuyên), Bước chân trên dãyTrường Sơn (Vũ Trọng Hối), Miền nam nhớ mãi ơn Người (Lưu Cầu), HồChí Minh đẹp nhất tên Người ( Trần Kiết Tường); Rừng xanh vang tiếngTalư (Phương Nam). Tiếng chày trên sóc Bom Bo(Xuân Hồng), Tiếngđàn Talư (Huy Thục), Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (Lư Nhất Vũ). Hátmãi khúc quân hành (Diệp Minh Tuyền); Chào em cô gái Lam Hồng (ÁnhDương), Cô gái mở đường (Xuân Giao)…Cùng với những ca khúc ấy, thơ chốngMỹ đã được phổ nhạc trở thành những ca khúc đi cùng năm tháng và có sức sốnglâu bền, vẫn ngân vang cho đến bây giờ.

Dựa trên lời thơ, bằng sự rung cảmnghệ thuật, các nhạc sĩ không ngừng sáng tạo nên sức sống cho âm nhạc. Điều dễnhận thấy, các nhạc sĩ khá trung thành với nguyên bản, tên bài thơ đồng thời làtên ca khúc. Có thể kể đến: Vàm Cỏ Đông (Thơ Hoài vũ, nhạc Trương QuangLục), Ngọn đèn đứng gác (Thơ Chính Hữu, nhạc Hoàng Hiệp), Đường ramặt trận (Thơ Chính Hữu, nhạc Huy Du), Tháng ba Tây Nguyên (Thơ ThânNhư Thơ, nhạc Văn Thắng), Bước chân trên dải Trường Sơn (Thơ Nguyễn ĐăngThực- Tào Mạt, nhạc Vũ trọng Hối), Lá đỏ (Thơ Nguyễn Đình Thi, nhạcHoàng Hiệp), Bóng cây Kơ- nia (thơ Ngọc Anh, nhạc Phan Huỳnh Điểu), Hạtgạo làng ta (thơ Trần Đăng Khoa, nhạc Trần Viết Bính), Em bé Bảo Ninh(Thơ Nguyễn Văn Dinh, nhạc Trần Hữu Pháp), Cô gái vót chông (thơMôlôyclavi, nhạc Hoàng Hiệp), Cùng anh tiến quân trên đường dài (thơXuân Sách, nhạc Huy Du), Đất quê ta mênh mông (thơ Dương Hương Ly, nhạcHoàng Hiệp), Đêm hành quân nhớ Bác(thơ Nguyễn Trung Thu, nhạc Huy Du), TrườngSơn Đông, Trường Sơn Tây (Thơ Phạm Tiến Duật, nhạc Hoàng Hiệp)…

Nhạc sĩ thường bắt được cái hồn củathơ, không lấy nguyên mẫu từng câu từng chữ, mà chọn lựa sử dụng những câu,những đoạn phù hợp với ý tưởng của mình. Bài hát Bài ca Trường SơncủaTrần Trung dựa trên bài thơ Trường Sơn của Gia Dũng; ca khúc Lời rutrên nương của Trần Hoàn dựa trên bài thơ Khúc hát ru những em bé lớntrên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm; ca khúc Ta tự hào đi lên, ôi Việt Namdựa trên bài thơ Đầu sóng của Hoàng Trung Thông; bài hát Nổi lửalên emdựa trên bài thơ Em vẫn hành quân của Giang Lam; Bùi ĐìnhThảo dựa trên bài thơ Hương rừng của Hoàng Minh Chính sáng tác ca khúc Đihọc… Có nhiều trường hợp phổ nhạc theo cách phỏng thơ, lấy cốt từ tứ củathơ chuyển ca từ phù hợp: Anh vẫn hành quân (phỏng thơ Trần Hữu Thung,nhạc Huy Du), Người lái đò trên sông Pô cô (phỏng thơ Mai Trung, nhạcCẩm Phong)…

Có trường hợp nhạc sĩ lấy tứ thơ tiêu biểu làm sức sống cho cả ca khúc, nhưtrường hợp Tiếng đàn bầu (thơ Lữ Giang), nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc chỉlấy hai câu thơ tiêu biểu “Cung thanh là tiếng mẹ- Cung trầm là giọng cha”làm nên giai điệu da diết của Tiếng đàn bầu. Nhiều trường hợp, nhạc sĩthay đổi trật tự kết cấu thơ, như Dáng đứng Việt Nam ( thơ Lê Anh Xuân,nhạc Nguyễn Chí Vũ). Có trường hợp nhạc sĩ không chỉ chọn một bài, riêng một nhàthơ cho ca khúc của mình. Đường chúng ta đi- ca khúc đoạt giải thưởng Hồ ChíMinh, được nhạc sĩ Huy Du phổ nhạc- vẫn vang lên hào hùng nhân dịp kỉ niệmnhững ngày lễ lớn của đất nước: “Việt Nam! Trên đường chúng ta đi. Nghe gióthổi đồng xanh quê ta đó. Nghe sóng biểm ầm vang xa tận tới chân trời. Nghe ấmlòng những khi đang dồn bước, mà vui sao ta chẳng nói lên lời…” lấy cả thơXuân Sách và Hoàng Trung Thông.

Nói về thơ phổ nhạc trong giai đoạnlịch sử- văn học này, không thể không nhắc đến những bài thơ phổ nhạc trongphong trào đấu tranh chống Mỹ của SVHS ở các đô thị miền Nam. Nổi tiếng nhất cólẽ là bài Bà mẹ Bàn Cờ của nhạc sĩ Trần Long Ẩn (phổ thơ Nguyễn KimNgân). Xuất hiện cùng thời điểm (1970) là bài Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biểnlửa của Nguyễn Phú Yên (phổ thơ Võ Quê). Không phổ biến bằng, nhưng Mai cóhoà bình của Hải Hà (Tức BS Trương Thìn- phổ bài thơ cuối cùng của nhà thơ-liệt sĩ Ngô Kha), và Mẹ vẫn chờ emcủa nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên (phổ thơTần Hoài Dạ Vũ), với tiếng hát sôi nổi, truyền cảm với Vương Thị Trai đã tạohiệu ứng nhất định trong phong trao SVHS ở Huế những năm 1973-1974.

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu là nhạc sĩcó nhiều thành công trong việc “chắp cánh cho thơ”. Nếu ở Trịnh Công Sơn “ lờivượt nhạc”, thì ở Phan Huỳnh Điểu “nhạc vượt thơ” (nhận xét của nhạc sĩ PhongNhã). Ông đưa tình ca vào cả nhịp hành khúc, điển hình là Hành khúc ngày vàđêm ( thơ Bùi Công Minh) và Cuộc đời vẫn đẹp sao (thơ Dương HươngLy) với tâm niệm Hành khúc mà không lãng mạn thì ngán chết!.

Xúc động trước hình ảnh La Thị Támvà những cô gái Ngã ba Đồng Lộc, năm 1970, trong lần hành quân qua Đồng Lộc,nhạc sĩ Doãn Nho đã gặp nhà thơ Phương Thuý. Sau buổi trò chuyện ấy, ngồi lạivới cây đàn, chỉ hai giờ sau, bài hát Người con gái sông La ra đời vớiâm hưởng bài hát hùng tráng, đầy da diết, ngọt ngào, đã khắc sâu vào trái timbao người tri ân với những người con tình nguyện dâng hiến tuổi xuân cho đấtnước.

Vốn là một nghệ sĩ tài hoa ở cả lĩnh vực thơ và nhạc, Nguyễn Đình Thi sáng tác Diệtphát xít trong những ngày Cách Mạng Tháng Tám sục sôi và bài hát đã đượcchọn làm nhạc hiệu của Đài Tiếng Nói Việt Nam; bài hát Người Hà Nội, viết từnăm 1947, thấm đẫm chất trữ tình của người con Hà Nội; thơ ông thường được chọnphổ nhạc, bởi nhịp điệu của cảm xúc, nhịp điệu tổ chức hình ảnh được sàng lọcqua tâm hồn nhà thơ. Thơ nói bằng hình ảnh, và hình ảnh chính là điểm tựa chonhịp điệu thơ. Đặc biệt nhạy cảm về tính nhạc, nhiều câu thơ của Nguyễn ĐìnhThi tự nó đã là câu hát, là nốt nhạc được “ký hiệu hoá” qua âm thanh ngôn ngữ.Bài Nhớ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc năm 1974. Nhịp điệu của rừngTrường Sơn ào ào trút lá, đoàn quân ra trận trong sương khói bàng bạc của bụiđất: Gặp em/ trên cao lộng gió/ Rừng lạ/ ào ào lá đỏ/ Em đứng bên đường/ Nhưquê hương/ Vai áo bạc/ quàng súng trường. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp chỉ đổi “rừnglạ” (thanh trắc) sang “rừng Trường Sơn”(thanh bằng) là tạo nên sức vang ngân,và ca khúc ấy đã vang lên trong dịp mừng chiến thắng năm 1975.

Những ca khúc phổ nhạc thơ chống Mỹmang hình tượng đẹp, vừa hùng tráng, vừa tha thiết, trữ tình. Đó là hình tượngTổ Quốc, nhân dân mang âm hưởng hùng ca, tầm vóc, kích thước sử thi hoành tráng( Đường chúng ta đi. Ta tự hào đi lên, ôi Việt Nam. Dáng đứng Việt Nam. Anhvẫn hành quân. Bước chân trên dải Trường Sơn…)

Thơ gợi cảm hứng lớn, được chuyểnhoá từ đường nét, tiết tấu, giọng điệu để trở thành đường nét, tiết tấu của âmnhạc có hiệu suất cao nhất, có sức sống lâu bền trong đời sống thơ ca và âm nhạcnước nhà. Bằng sự phát minh sáng tạo nghệ thuật và thẩm mỹ, bằng quy trình hưng phấn và cảm hứng, nhạc sĩ đã hiện thực hoá thơ thành âm nhạc. Những bài thơ được phổ nhạc trởthành những ca khúc bất tử hào hùng của thời chống Mỹ, chiếm vị trí quan trọng, khuyến khích, thôi thúc đồng bào, chiến sỹ trên mỗi chặng đường cách mạng và mãimãi vĩnh cửu cùng thời hạn, cùng lịch sử vẻ vang. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng nhiềuhãng băng đĩa vẫn sản xuất nhiều album ca khúc cách mạng, với sự biểu lộ củanhững ca sĩ sinh sau năm 1975 ( Quang Dũng, Đan Trường, Nam Khánh … ). Những cakhúc ấy vẫn Open đều đặn trên những kênh truyền hình, sân khấu, ca nhạc, trường học, lòng người và … cả người hát lẫn người nghe vẫn còn tươi nguyên nhữngcảm xúc dạt dào về một thời không thể nào quên .

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories