Red Hat Linux – Là gì Wiki

Related Articles

Red Hat Linux, được lắp ráp bởi công ty RedHat, là hệ điều hành dựa trên Linux phổ biến cho đến khi ngưng nó trong năm 2004.[1]

Red Hat Linux 1.0 được phát hành ngày 3 tháng 11 năm 1994. Nó đã được bắt đầu được gọi là ” Red Hat Commercial Linux ” [ 2 ] Đây là bản phát hành Linux tiên phong sử dụng RPM Package Manager như định dạng đóng gói của nó, và qua thời hạn đã ship hàng như là điểm khởi đầu cho 1 số ít bản phân phối khác, ví dụ điển hình như Mandriva Linux và Yellow Dog Linux .Từ 2003, Red Hat đã ngưng tăng trưởng Red Hat Linux và chuyển sang Red Hat Enterprise Linux ( RHEL ) dành cho thiên nhiên và môi trường doanh nghiệp. Fedora, được tăng trưởng bởi dự án Bất Động Sản Fedora, sự tương hỗ của hội đồng Và sự hỗ trợ vốn từ Red Hat, là phiên bản không lấy phí tốt nhất thích hợp cho việc sử dụng tại nhà. Red Hat Linux 9, việc phát hành sau cuối, lưu lại sự kết thức sau cuối của nó vào ngày 30/4/2004, mặc dầu bản update vẫn được công bố cho nó tới năm 2006 bởi dự án Bất Động Sản Fedora Legacy cho đến khi đóng cửa vào đầu năm 2007. [ 3 ]

Tính năng

Phiên bản 3.0.3 là một trong các bản phân phối Linux đầu tiên hỗ trợ Định dạng thực thi và có thể kết nối thay vì định dạng a.out.[4]

Red Hat Linux giới thiệu một cài đặt đồ họa gọi là Anaconda, dự định được dễ sử dụng cho người mới, và mà từ đó đã được áp dụng bởi một số bản phân phối Linux khác. Nó cũng giới thiệu một công cụ được xây dựng trong được gọi là Lokkit để cấu hình các khả năng tường lửa.

Trong phiên bản 6 Red Hat chuyển sang glibc 2.1, egcs-1. 2, và kernel 2.2. [ 5 ] Nó cũng ra mắt Kudzu, một thư viện ứng dụng để tự động hóa phát hiện và thông số kỹ thuật phần cứng. [ 6 ]Phiên bản 7 được phát hành để sẵn sàng chuẩn bị cho kernel 2.4, mặc dầu phiên bản tiên phong vẫn sử dụng kernel 2,2 không thay đổi hơn. Glibc được update lên phiên bản 2.1.92, là bản beta của bản 2.2 sắp tới, và Red Hat sử dụng một phiên bản vá của GCC từ CVS mà họ gọi là ” 2,96 “. [ 7 ] Quyết định phát hành một phiên bản GCC không không thay đổi là do GCC 2,95 hoạt động giải trí kém trên nền tảng phải i386, đặc biệt quan trọng là DEC Alpha. [ 8 ] Thêm mới hơn cũng đã cải tổ tương hỗ cho C + + chuẩn, đã gây ra hầu hết mã lệnh hiện không để biên dịch .Đặc biệt, việc sử dụng một phiên bản không phát hành của GCC đã gây ra 1 số ít lời chỉ trích, ví dụ từ Linus Torvalds [ 9 ] và The GCC Steering Committee ; [ 10 ] Red Hat đã buộc phải bảo vệ quyết định hành động của họ. [ 11 ]GCC 2,96 bị lỗi trong việc biên dịch Linux kernel, và 1 số ít ứng dụng khác được sử dụng trong Red Hat, nhờ kiểm tra ngặt nghèo hơn. nó cũng có sự không thích hợp C + + ABI với những trình biên dịch khác. Sự phân bổ gồm có một phiên bản trước của GCC để biên dịch hạt nhân, được gọi là ” kgcc ” .Đến Red Hat Linux 8.0, UTF-8 đã được kích hoạt như là mã hóa ký tự mặc định cho mạng lưới hệ thống. Điều này có ảnh hưởng tác động ít đến người dùng nói tiếng Anh, nhưng được cho phép quốc tế thuận tiện hơn nhiều và tương hỗ liên tục cho nhiều ngôn từ, gồm có cả chữ tượng hình, và ngôn từ phức tạp khác cùng với những ngôn từ châu Âu. Tuy nhiên, điều này đã gây ra 1 số ít phản ứng xấu đi giữa những người dùng hiện tại Tây Âu, có những thiết lập ISO-8859d ựa trên thiết lập đã bị phá vỡ bởi sự biến hóa Template : Cần chú thích .

Phiên bản 8.0 cũng là lần thứ 2 dùng giao diện Bluecurve. Nó dùng chung giao diện desktop GNOME-2 and KDE 3.0.2, cũng như OpenOffice-1.0. Các thành viên KDE đã không đánh giá cao sự thay đổi, tuyên bố rằng nó đã không trong lợi ích tốt nhất của KDE.[12]

Phiên bản 9 tương hỗ POSIX Thread Library, mà đã được đưa vào Kernel 2.4 bởi Red Hat [ 13 ]Red Hat Linux thiếu nhiều tính năng do những yếu tố bản quyền và bằng bản quyền sáng tạo. Ví dụ như, tương hỗ MP3 đã được vô hiệu trong cả Rhythmbox và XMMS, thay vào đó, Red Hat khuyến nghị sử dụng Ogg Vorbis, vốn dĩ không có văn bằng bản quyền trí tuệ. Tuy nhiên những tương hỗ MP3, hoàn toàn có thể được thiết lập sau đó, mặc dầu tiền bản quyền được nhu yếu ở khắp mọi nơi MP3 được cấp văn bằng bản quyền trí tuệ. Hỗ trợ cho mạng lưới hệ thống tập tin NTFS của Microsoft cũng không có, nhưng vẫn hoàn toàn có thể setup một chá ( ? ) tự do

Fedora

Template : ChínhRed Hat Linux đã được bắt đầu được tăng trưởng độc quyền bên trong Red Hat, với chỉ thông tin phản hồi từ người dùng trải qua những báo cáo lỗi và góp phần cho những gói ứng dụng được dùng đến – không góp phần vào những bản phân phối tựa như. Điều này đã được đổi khác vào cuối năm 2003 khi Red Hat Linux sáp nhập với dự án Bất Động Sản Fedora dựa vào hội đồng. Kế hoạch mới để lôi cuốn hầu hết những codebase từ Fedora khi tạo bản phân phối mới Red Hat Enterprise Linux. Fedora sửa chữa thay thế những bản tải về bản chính và phiên bản kinh doanh bán lẻ của Red Hat Linux. Các quy mô là tựa như như mối quan hệ giữa Netscape Communicator và Mozilla, hoặc StarOffice và OpenOffice. org, mặc dầu trong trường hợp này là mẫu sản phẩm thương mại hiệu quả cũng là ứng dụng trọn vẹn không tính tiền .

Tên gọi

Tên chính thức của bản phát hành Red Hat Linux là Red Hat Linux (thường được viết tắt để RHL). Phần đầu tiên, “Red Hat”, là công ty phần mềm Red Hat. Phần thứ hai, “Linux”, đề cập đến nền tảng Linux Kernelđược viết bởi Linus Torvalds và cộng đồng phần mềm nguồn mở.

Lịch sử phiên bản

nhỏ|Ảnh chụp hộp bìa của Red Hat Linux 5.2

nhỏ|Đĩa CDROM Red Hat 5.0

Ngày phát hành được rút ra từ các thông báo trên comp.os.linux.announce. Tên các phiên bản được lựa chọn để khả năng nhận thức liên quan đến các bản phát hành, nhưng không liên quan trong cùng một cách như bản phát hành trước đó.[14]

  • 1.0 (Mother’s Day),3/11/1994 (Linux 1.2.8)
  • 1.1 (Mother’s Day+0.1), 1/8/1995 (Linux 1.2.11)
  • 2.0, 20/9/1995 (Linux 1.2.13-2)
  • 2.1, 23/11/1995 (Linux 1.2.13)
  • 3.0.3 (Picasso), 1/5/1996 (Linux 1.2.x) – lần đầu tiên phát hành hỗ trợ DEC Alpha
  • 4.0 (Colgate), 3/10/1996 (Linux 2.0.18) – lần đầu tiên phát hành hỗ trợ SPARC
  • 4.1 (Vanderbilt), 3/2/1997 (Linux 2.0.27)
  • 4.2 (Biltmore), 19/5/1997 (Linux 2.0.30-2)
  • 5.0 (cơn bão),1/12/1997 (Linux 2.0.32-2)
  • 5.1 (Manhattan), 22/5/1998 (Linux 2.0.34-0.6)
  • 5.2 (Apollo), 2/11/1998 (Linux 2.0.36-0.7)
  • 6.0 (Hedwig), 26/4/1999 (Linux 2.2.5-15)
  • 6.1 (Cartman), 4/10/1999 (Linux 2.2.12-20)
  • 6.2 (Zoot), 3/4/2000 (Linux 2.2.14-5.0)
  • 7 (Guinness), 25/9/2000 (phiên bản này được dán nhãn “7” không phải “7,0”) (Linux 2.2.16-22)
  • 7.1 (Seawolf), 16/4/2001 (Linux 2.4.2-2)
  • 7.2 (Enigma), 22/10/2001 (Linux 2.4.7-10, Linux 2.4.9-21smp)
  • 7.3 (Valhalla), 6/5/2002 (Linux 2.4.18-3)
  • 8.0 (Psyche), 30/9/2002 (Linux 2.4.18-14)
  • 9 (Shrike), 31/3/2003 (Linux 2.4.20-8) (phiên bản này được dán nhãn “9” không phải “9,0”)

Dự án Fedora và Red Hat đã được sáp nhập vào ngày 22 Tháng Chín 2003.[15]

  • Xem Danh sách các phiên bản của Fedora

Chú thích

Liên kết ngoài

Template : Thể loại Commons

Template : Red Hat Template : Linux-distroThể loại : Bản phân phối Linux Thể loại : Bản phân phối Linux dựa trên RPM Linux

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories