Kinh Chuyển pháp luân – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Tượng diễn đạt đức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân cho năm đồng đội Kiều Trần Như tại một ngôi chùa Nước Ta tại Quebec, Canada .

Kinh Chuyển pháp luân (Pali; Sanskrit: Dharmacakrapravartana Sūtra; chữ Phạn: धर्मचक्रप्रवर्तनसूत्र; chữ Hán: 轉法輪經, 转法轮经; Hán Việt: Chuyển pháp luân kinh) là bài giảng pháp đầu tiên mà Sa môn Tất-đạt-đa Cồ-đàm thuyết giảng cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển sau khi Ngài đắc đạo. Bài Pháp nầy tóm tắt các điểm chính yếu của Ðạo giải thoát, đó là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo.[1]

Không lâu sau khi Thái tử Siddhattha xuất ly đời sống thế tục, sống không mái ấm gia đình, Ngài đã tu hành khổ hạnh với nỗ lực can đảm và mạnh mẽ ở Uruvela. Tại đó, nhóm năm vị Tỳ-khưu đã Giao hàng và chăm nom cho nhu yếu rất ít của Ngài. Sáu năm sau, Ngài nhận thấy rằng, khổ hạnh không phải là con đường đúng để giác ngộ nên đã từ bỏ nó. Ngài dùng lại vật thực thiết yếu cho khung hình. Nhóm năm vị Tỳ-khưu tâm lý sai lầm đáng tiếc rằng Ngài đã từ bỏ nỗ lực giác ngộ. Thất vọng về Ngài, họ rời bỏ Ngài và đi đến Vườn Nai ở Isipatana .

Sau khi Thái tử Siddhattha chứng đạt giác ngộ và trở thành một vị Phật, ngài quan sát thấy rằng nhóm năm vị Tỳ-khưu sẽ là nhóm người đầu tiên chứng ngộ Pháp (Dhamma). Vì vậy, Ngài viếng thăm họ ở Isipatana để thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavatana Sutta). Bài Kinh (Sutta) này rất được các Phật tử kính trọng, vì nó là lần đầu tiên Đức Phật quay bánh xe Pháp (Dhamma) mà chư thiên và nhân loại chưa từng được được nghe.[2]

Như vầy tôi nghe .

Một thời Thế Tôn trú ở Bārānasī, tại Isipatana, chỗ Vườn Nai.

Tại đấy, Thế Tôn bảo chúng năm Tỷ-kheo :— Có hai cực đoan này, này những Tỷ-kheo, một người xuất gia không nên thực hành thực tế theo. Thế nào là hai ?Một là đắm say trong những dục ( kàmesu ), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục tiêu. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục tiêu. Tránh xa hai cực đoan này, này những Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn .Và thế nào là con đường Trung đạo, này những Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn ? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là : chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là con đường trung đạo, này những Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn .Ðây là Thánh đế về Khổ, này những Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ .Ðây là Thánh đế về Khổ tập, này những Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái .Ðây là Thánh đế về Khổ diệt, này những Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước .Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, này những Tỷ-kheo, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến … chánh định .Ðây là Thánh đế về Khổ, này những Tỷ-kheo, so với những pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Ðây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri, này những Tỷ-kheo, so với những pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Ðây là Thánh đế về Khổ đã được liễu tri, này những Tỷ-kheo, so với những pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh .Ðây là Thánh đế về Khổ tập, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh. Ðây là Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh. Ðây là Thánh đế về Khổ tập đã được đoạn tận, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh .Ðây là Thánh đế về Khổ diệt, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh. Ðây là Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh. Ðây là Thánh đế về Khổ diệt đã được chứng ngộ, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh .Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến khổ diệt, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh. Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập, này những Tỷ-kheo, so với những pháp … quang sanh. Ðây là Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt đã được tu tập, này những Tỷ-kheo, so với những pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh .Cho đến khi nào, này những Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta ; thời này những Tỷ-kheo, cho đến khi ấy, trong quốc tế này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Ðẳng Giác .

Và cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đến này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: “Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Chúng năm Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Phật dạy. Trong khi lời dạy này được tuyên bố, Tôn giả Koṇḍañño khởi lên pháp nhãn thanh tịnh, không cấu uế như sau: “Phàm vật gì được tập khởi, tất cả pháp ấy cũng bị đoạn diệt”.

Và khi Pháp luân này được Thế Tôn chuyển vận như vậy, chư Thiên cõi đất này lớn tiếng nói lên : “ Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, hay bất kể một ai ở đời ” .Sau khi được nghe tiếng chư Thiên ở cõi đất, Tứ đại Thiên vương thiên lên tiếng nói lên : “ Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất kể một ai ở đời ” .Sau khi được nghe tiếng của chư Thiên ở Tứ đại Thiên vương thiên, thời chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba … chư Thiên Yàmà … chư Thiên Tusità … chư Hóa lạc thiên … chư Tha hóa tự tại thiên … chư Thiên ở Phạm thiên giới lớn tiếng nói lên : “ Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận … bất kể một ai ở đời ” .Như vậy, trong sát-na ấy, trong khoảnh khắc ấy, trong khoảng thời gian ngắn ấy, tiếng ấy lên đến Phạm thiên giới. Và mười ngàn quốc tế hoạt động, rung động, hoạt động mạnh. Và một hào quang vô lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực chư Thiên .

Rồi Thế Tôn thốt lên lời cảm hứng sau đây: “Chắc chắn đã giác hiểu là Koṇḍañño (Kiều-trần-như)! Chắc chắn đã giác hiểu là Koṇḍañño!”

Như vậy Tôn giả Koṇḍañño được tên là Annàta Koṇḍañño (A-nhã Kiều-trần-như).

  • Anandajoti Bhikkhu (trans.) (2010). The Earliest Recorded Discourses of the Buddha (from Lalitavistara, Mahākhandhaka & Mahāvastu). Kuala Lumpur: Sukhi Hotu. Also available on-line at http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Earliest-Discourses/index.htm.
  • Ajahn Sumedho (2002), The Four Noble Truths, Amaravati Publications
  • Ajahn Sucitto (2010), Turning the Wheel of Truth: Commentary on the Buddha’s First Teaching, Shambhala
  • Bhikkhu Bodhi (translator) (2000), The Connected Discourses of the Buddha: A New Translation of the Samyutta Nikaya, Boston: Wisdom Publications, ISBN 0-86171-331-1
  • Dhamma, Ven. Dr. Rewata (1997), The First Discourse of the Buddha, Wisdom, ISBN 0-86171-104-1
  • Gombrich, Richard (1988, repr. 2002). Theravada Buddhism: A Social History from Ancient Benares to Modern Colombo. London: Routledge. ISBN 0-415-07585-8.
  • Geshe Tashi Tsering (2005), The Four Noble Truths: The Foundation of Buddhist Thought, Volume I, Wisdom, Kindle Edition
  • Gethin, Rupert (1998), Foundations of Buddhism, Oxford University Press
  • Goldstein, Joseph (2002), One Dharma: The Emerging Western Buddhism, HarperCollins
  • Harvey, Peter (1990), Introduction to Buddhism, Cambridge University Press
  • Norman, K.R. (1982). “The Four Noble Truths: a problem of Pali syntax” in L.A. Hercus et al. (ed.), Indological and Buddhist Studies: Volume in Honour of Professor J.W. de Jong on his Sixtieth Birthday. Canberra, pp. 377–91.
  • Thich Nhat Hanh (1991), Old Path White Clouds, Parallax Press
  • Thich Nhat Hanh (1999), The Heart of the Buddha’s Teaching, Three River Press
  • Thich Nhat Hanh (2012), Path of Compassion: Stories from the Buddha’s Life, Parallax Press
  • Walpola Rahula (2007), What the Buddha Taught, Grove Press, Kindle Edition

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories