Khuyến nông Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Khuyến nông Việt Nam là các hoạt động, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp ở Việt Nam. Khuyến nông Việt Nam có lịch sử phát triển từ lâu đời gắn liền với lịch sử nông nghiệp Việt Nam.

Thời kỳ phong kiến[sửa|sửa mã nguồn]

Khuyến nông trồng lúa[sửa|sửa mã nguồn]

Hoạt động Khuyến nông ở Việt Nam được khởi nguồn từ những huyền thoại trong buổi bình minh của lịch sử, khi các Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Thời kỳ ấy, Vua Hùng Vương đã dạy dân xã Minh Nông (Vĩnh Phúc ngày nay) cấy lúa, người dân nơi đây đã biết trồng lúa theo mực nước thuỷ triều lên xuống, ít lâu sau cây lúa trở thành cây trồng chủ lực của vùng này.[1]

Truyền thuyết kể rằng : ” Thời xưa nhân dân chưa biết cày, cấy làm ra thóc gạo mà ăn, chỉ sống bằng thịt thú rừng, rễ cây, quả và những loại rau dại, lúa hoang nhặt được. Các vùng đất ven sông mỗi lần nước lớn dâng lên lại được phù sa bồi thêm phì nhiêu. Vua Hùng thấy đất ấy tốt lắm, mới gọi dân đến bảo tìm cách đắp bờ giữ nước. Vua thấy lúa mọc hoang nhiều mới bày cách cho dân giữ hạt, gieo mạ, khi mạ lên xanh thì đem cấy vào những tràn ruộng có nước. Lúc đầu dân không biết cấy, tìm hỏi vua. Vua Hùng nhổ mạ lên, đem tới ruộng nước, lội xuống cấy cho dân xem, mọi người làm theo. Cấy tới khi mặt trời đứng bóng, Vua nghỉ tay cùng mọi người nhà hàng siêu thị ở dưới gốc đa lớn ” .” Một hôm những con gái Vua Hùng theo dân đi đánh cá bên sông thấy chim từng đàn bay lượn khắp bãi, nhảy nhót trong đám lau cỏ, những nàng đều vui thích. Có một công chúa mải ngắm đàn chim dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi trên mái tóc. Công chúa đem bông kê về trình với Vua Hùng. Vua mừng cho là điềm lành, nghĩ rằng hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo những Mỵ Nương ra bãi tuốt những bông kê đó đem về .

Tới mùa xuân, Vua đem các hạt kê ra bảo các công chúa gọi dân đi quải kê. Nhân dân vui mừng rước Vua ra đồng. Trống, mõ đi đầu rồi đến những người rước lúa, rước kê, Vua, các Mỵ Nương và nhân dân theo sau. Tới bến sông, Vua xuống bãi lấy que nhọn chọc lỗ để tra hạt lúa rồi lại gieo hạt kê trên bãi. Làm xong Vua cắm một cành tre để chim khỏi ăn hạt. Các Mỵ Nương làm theo Vua tra lúa, gieo kê và cắm các cành tre khắp đồng, khắp bãi”. (Theo Nguyễn Khắc Xương – Truyền thuyết Hùng Vương, hồ sơ khoa học Đền Hùng năm 2003).[2]

Nhớ ơn Vua Hùng, nhân dân tôn Vua làm tổ nghề nông, thường gọi là Thần Nông. Dựng đàn tịch điền quay sống lưng về hướng Tây Nam ngay trên mom đất Vua ngồi khi dạy dân cấy lúa để thờ cúng. Người Việt cổ mở màn thờ Thần Nông từ khi ấy. [ 1 ]

Khuyến nông dâu, tằm[sửa|sửa mã nguồn]

Công chúa Thiều Hoa, con Vua Hùng thứ 6 giúp nông dân vùng bãi sông Hồng thuộc huyện Ba Vì ( TP.HN ) nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Truyện kể rằng công chúa là người hiền lành, xinh đẹp nhưng lại không chịu lấy chồng. Nàng khước từ dự tính gả chồng của vua cha và sang sống ở trang trại khác. Nàng có biệt tài chuyện trò với chim và bướm mỗi khi vào rừng chơi. Một lần chuyện trò với bướm nâu, biết bướm nâu chỉ ăn một thứ lá dâu để đẻ ra trứng rồi nở thành sâu, nhả ra sợi vàng. Bướm đưa Thiều Hoa ra bãi dâu ven sông thấy hàng ngàn con sâu đang làm kén. Thiều Hoa xin bướm giống trứng và sâu ấy cũng như hỏi bướm cách kéo tơ rồi tìm cách đan chúng thành những mảnh, tấm nõn nà vàng tươi. Nàng đặt tên cho những tấm sợi ấy là lụa. Chính cái tên Thiều Hoa gọi bướm là ngài và giống sâu cho sợi ấy là tằm còn gọi đến ngày này. Sau kỳ tích ấy Thiều Hoa đem truyền dạy cho mọi người trồng dâu, chăn tằm, kéo sợi, dệt lụa. Tấm lụa tiên phong nàng đem Tặng Kèm Vua cha. Hùng Vương khen ngợi con gái yêu và truyền cho dân chúng theo đó mà dệt lụa. Nhớ ơn Thiều Hoa công chúa, dân làng Cổ Đô, Vân Sa … tôn bà làm tổ sư nghề dệt lụa, làm thành hoàng làng của mình và lập đền thờ cúng hàng năm. [ 3 ]

Lễ hội Tịch điền[sửa|sửa mã nguồn]

Lễ tịch điền là ngày lễ khởi đầu việc làm ruộng trong năm (Thửa ruộng nào vua thân chinh dẫm xuống cày gọi là tịch điền 籍田), mang ý nghĩa khuyến nông, được nhiều triều đại coi trọng, thực hiện hàng năm[cần dẫn nguồn], đó là một lễ hội do nhà vua đích thân khai mạc, xuống ruộng đi cày và tế lễ cầu cho mưa thuận gió hòa.

Lễ hội Tịch điền được sử sách ghi chép lại lần đầu tiên vào năm Thiên Phúc thứ 8 (987) thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành cày ruộng tịch điền ở Đọi Sơn[4][5]. Sử sách chép lại: Năm 987, vua Lê Đại Hành cày ruộng đã phát hiện được một hũ vàng, sau lại cày thửa ruộng khác lại được một hũ bạc. Vì thế mà những thửa ruộng này được đặt tên là  “Kim Ngân điền”[4]. Chắc số vàng, bạc này do vua đã cho người chôn sẵn, nhằm khích lệ người ham cày ruộng thì có ngày sẽ “bắt được vàng”[cần dẫn nguồn]. Có ý nghĩa sâu hơn nữa là: siêng năng cày cấy sẽ tạo nên của cải[cần dẫn nguồn].

Thời nhà Lý, lễ tịch điền được coi như ngày lễ hội chính của quốc gia[cần dẫn nguồn]. Vua Lý Thái Tông trong thời gian trị vì đã nhiều lần xuống ruộng tự cầm cày trong ngày lễ hội (năm 1030, 1032, 1038, 1042)[6], làm lễ tế Thần Nông cầu cho mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt. Theo sách Việt sử lược, trang 255 có ghi: “Mùa hạ tháng 4 năm Nhâm Thân (1032), vua cày Tịch điền ở Tín Hương – Đỗ Động Giang, có nhà nông dâng vua một cây lúa chiêm có 9 bông thóc, vua xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên”; trang 259 ghi như sau: “Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng Tịch điền. Vua sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn vua thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng – Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày 3 lần rồi thôi”. Sử cũng ghi chép về việc cày tịch điền của vua Lý Anh Tông năm 1148[7].

Đời Hậu Lê năm Hồng Đức thứ 4 ( 1473 ), đầu xuân, vua và những quan cúng tế Thần Nông, làm lễ Tịch điền, nhà vua đích thân cày ruộng [ 8 ]. Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về những lần cày tịch điền của những vua Lê Hiến Tông năm 1499, Lê Uy Mục năm 1509 [ 9 ], Lê Tương Dực năm 1514 [ 10 ]

Nhà Nguyễn, đời Minh Mạng, nhằm khuyến khích người dân cày ruộng, nhà vua xuống Dụ xem việc khôi phục Lễ tịch điền (nhà vua đích thân xuống ruộng cày) là “thực là chính sự quan trọng của đấng vương giả“. Minh Mạng xét lại các nghi thức cử hành đại lễ này dưới các triều đại trước và cho rằng nghi lễ cón quá giản lược, vì thế vào năm 1828, nhà vua giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo các điển lễ làm thành luật lệ lâu dài, và đại lễ kéo dài 5 ngày được tổ chức hàng năm vào tháng 5 âm lịch. Trong ngày lễ tịch điền, nhà vua tự mình cầm cày 3 đường đầu tiên, rồi đến các quan và hoàng thân quốc thích cày tiếp. Vào thời này, việc tổ chức lễ tịch điền được giao cho bộ Lễ, họ kết hợp với các quan lại và chuẩn bị hết sức chu đáo. Các đời vua Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định… đều tổ chức lễ Tịch điền hàng năm. Ý nghĩa của Lễ Tịch điền được vua Thiệu Trị thể hiện trong bài Thường Mậu quan canh, nhân một lần lên đài quan canh xem các quan cày ruộng:

“Chót vót lầu cao giữa khoảng không

Nhìn xa quang cảnh chốn nương đồng

Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy

Năm tháng thương người trọng việc nông”.

“Lễ tịch điền nêu cao truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vua cũng như dân đều yêu mến làm việc, yêu mảnh đất sống và cần cù làm việc trên mảnh đất này. “Phi nông bất ổn” (không có nông nghiệp, xã hội không ổn định), cha ông ta ý thức được tầm quan trọng nên chính các vua chúa đã khuyến khích việc làm ruộng bằng gương sáng tự cày cấy khai mùa, các vị xem đây “thực là chính sự quan trọng của đấng vương giả”, đất nước ta “tuy có cảnh tình, mây lành, chim phụng, kỳ tập, kỳ lân ra đời, chẳng bằng được mùa là điềm lành trên hết!” (lời Vua Minh Mạng). Chúng ta không phân biệt sang hèn, nhưng luôn trân trọng nhớ ơn những người “chân lấm tay bùn” làm nên lúa gạo sản phẩm nuôi sống mình, tô đẹp quá khứ và kiến tạo tương lai, xây dựng lòng tự hào của dân tộc chúng ta”.[11]

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, quản trị Hồ Chí Minh cũng đã xuống ruộng để cày làm nức lòng nhân dân miền bắc Xã hội chủ nghĩa. Năm 2009, sau gần 100 năm ngừng tổ chức triển khai, nghi lễ này chính thức được tái hiện tại Đọi Sơn thuộc tỉnh Hà Nam vào mùng 5-7 tháng giêng, từ năm 2010 có sự tham gia của quản trị nước Nguyễn Minh Triết [ 12 ] và Trương Tấn Sang [ 13 ] .

Cơ quan trình độ[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1226, nhà Trần thành lập 03 tổ chức triển khai : Hà đê sứ ( lo việc phòng chống lụt, bão ), Đồn điền sứ ( quản trị đất đai ) và Khuyến nông sứ ( giúp dân tăng trưởng sản xuất nông nghiệp )

Chiếu Khuyến nông[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1065, Lý Thánh Tông hạ chiếu khuyến nông. [ 14 ]Giai đoạn 1114 – 1493, Vua Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông đã 17 lần ban Chiếu khuyến nông tạo điều kiện kèm theo khuyến khích nông dân tăng gia sản xuất. Trong đó có nhiều bản chiếu, chỉ dụ ( Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền … ) do chính Vua Lê Thánh Tông trực tiếp chấp bút và ban bố .Năm 1789, Vua Quang Trung phát hành ” Chiếu Khuyến nông ” [ 15 ]

Vua Gia Long đã khởi đầu thi hành những chủ trương tăng trưởng nông nghiệp, không bỏ hoang hóa đất đai, nỗ lực tổ chức triển khai khai hoang, lập đồn điền để tăng trưởng nghề nông. Ở Nam Bộ, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư cách cá thể hoặc tập thể dưới sự trợ giúp của triều đình. Sử sách ghi lại tên tuổi người đã có công trong việc đào kênh, vỡ đất trong thời kỳ đầu là Thoại Ngọc Hầu. Hai vị quan tổ chức triển khai khẩn hoang nổi tiếng nhất sau đó là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương ; trong đó Nguyễn Công Trứ nổi lên vì là tác giả của ba chủ trương khẩn hoang lớn : đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang .

Đồn điền: Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo (cả người Việt và người Hoa), đi cùng với tội phạm và các binh sĩ để thực hiện việc khai khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được quản lý theo cung cách đồn điền không giống như thôn ấp bình thường; sau một khoảng thời gian từ sáu đến mười năm để cuộc sống ổn định thì sẽ chuyển sang hình thức làng xã, ruộng đất do xã quản lý và nộp thuế. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả sáu tỉnh.

Doanh điền: Đây là hình thức triều đình và nhân dân cùng kết hợp khai hoang, mới ra đời từ thời Nguyễn theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Công Trứ. Chính sách này nhằm di dân để lập ấp mới, bắt đầu thực hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng. Triều đình sẽ bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ đạo dân chúng đưa đi khai hoang theo hai trường hợp: Số dân mộ được là 50 người đủ một lý, người đứng ra mộ sẽ được ban chức lý trưởng; Số dân mộ được là 30 người đủ một ấp, người đứng ra tuyển một sẽ được ban chức ấp trưởng. Thời gian sáu tháng ban đầu, triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lương thực và phương tiện sản xuất. Từ tháng thứ bảy thì phải tự lo. Triều đình sẽ miễn thuế cho các ấp và lý mới này 3 năm.

Được sự chuẩn y của Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ đã tổ chức triển khai nhiều đợt khai hoang lập làng lớn, trong đó lớn nhất là việc xây dựng 2 huyện mới : huyện Tiền Hải thuộc tỉnh Tỉnh Thái Bình với 18.970 mẫu và 2350 đinh, huyện Kim Sơn tỉnh Tỉnh Ninh Bình với 14.620 mẫu và 1260 đinh. Cũng từ đây Open hai hình thức tư điền thế nghiệp và tư điền quân cấp .Tổng Giao Thủy thuộc Tỉnh Nam Định cũng được xây dựng theo hình thức này. Về sau, những quan ở Gia Định gồm Trương Minh Giảng, Cao Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu Chỉnh và Nguyễn Tri Phương cũng bắt chước thực thi chủ trương này trên vùng Gia Định đồng thời với chủ trương đồn điền trên một quy mô rất lớn và thu được nhiều thành công xuất sắc và hiệu suất cao, diện tích quy hoạnh ruộng đất đã tăng lên rất nhiều. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều : năm 1847 là 4.273.013 mẫu .Chính sách đồng điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệ thưởng phạt phân minh để khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn thực trạng bỏ đất nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng kỳ lạ ruộng hoang .Thời kỳ này, người nông dân luôn biết tận dụng kinh nghiệm tay nghề trong việc đồng áng với câu đúc rút chủ yếu của nghề nông : ” nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống “. Quy trình sản xuất gồm có : gieo hạt, cày bừa, cấy lúa, làm cỏ, bỏ phân, tát nước … Việc nhân giống được phát huy, người nông dân đã có được 65 giống lúa tẻ và 27 giống lúa nếp, trong đó có những giống ngắn ngày chỉ còn 3-4 tháng ( tính từ khi cấy đến khi gặt thì ngắn hơn, chỉ hơn 40 ngày, gọi là lúa câu ). Điểm hạn chế là trong khi tạo ra được nhiều giống múa mới cho gạo thơm, dẻo ngon thì người nông dân lại không có giải pháp tăng hiệu suất lúa. Ngoài lúa, người nông dân còn canh tác thêm nhiều loại cây lương thực như khoai, sắn, ngô, kê, bo bo, đậu … Kinh tế vườn rất tăng trưởng, đặc biệt quan trọng là ở Nam Bộ. Hàng loạt cây rau, củ, bí bầu, hoa quả được trồng trọt, trong đó có một số ít giống nhập khẩu như cafe, nho, hồ tiêu, đậu Hà Lan …Gia Long và những vị vua kế tục liên tục thi hành chủ trương tăng trưởng nông nghiệp khá phong phú, ruộng đất được khai hoang, lan rộng ra ; việc sản xuất lúa gạo ở vùng Gia Định tăng cao. Phương thức sản xuất lúa gạo đại trà phổ thông, nâng tầm khỏi cảnh sản xuất manh mún nhỏ lẻ thì đó là mặt thay đổi cực kỳ tích cực .

Từ năm 1945, Đảng, nhà nước và Hồ quản trị liên tục chăm sóc chỉ huy và phát hành nhiều chủ trương khuyến nông nhằm mục đích khuyến khích tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, cải tổ đời sống nông dân .

Tháng 4/1945, Hồ Chủ tịch căn dặn cán bộ: “Các chú ra về phải làm tốt công tác khuyến nông, ra sức phát triển nông nghiệp, chống giặc đói, diệt giặc dốt, thực hiện “Hũ gạo tiết kiệm””.

Nghị định số 41 BKT ngày 15/11/1945 của Bộ Kinh tế Quốc dân lao lý một số ít giải pháp để khuyến khích tận dụng đất đai trồng màu cứu đói [ 17 ] [ 18 ]. Vì trâu bò bị chết nhiều qua nạn đói và nạn lụt ( chỉ riêng trong nạn đói đầu năm 1945, 30 vạn con trâu bò đã bị chết, bằng 2/3 tổng số trâu bò cày kéo thời hạn đó ) nên sức kéo khan hiếm nghiêm trọng. Để khắc phục khó khăn vất vả này, những địa phương phải tổ chức triển khai sản xuất những loại nông cụ nhỏ và nhẹ để hoàn toàn có thể sử dụng sức người thay cho sức trâu bò ; Nhà nước trực tiếp động viên những nhà kỹ nghệ cấp tốc sản xuất thêm nông cụ và bán ủng hộ cho nông dân ( bán không lấy lãi, có trường hợp không tính công sản xuất, chỉ tính ngân sách nguyên vật liệu ) ; Hủy bỏ những lao lý cũ của Pháp, Nhật cấm kinh doanh trâu, bò trong trong nước. Cho tự do kinh doanh, luân chuyển trâu, bò trong cả nước .

1950 – 1957, Chính phủ ban hành các chính sách khuyến nông; thực hiện cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý hơn.[19]

Từ 1956 – 1958, nhà nước triển khai vận công, đổi công, nông dân giúp nhau .Năm 1960, Miền Nam xây dựng Nha Khuyến nông, Miền Bắc xây dựng những Hợp tác xã nông nghiệp [ 19 ]. Công tác khuyến nông quá trình này đa phần chuyển giao đến hợp tác xã. Phương pháp khuyến nông đa phần là đưa tân tiến kỹ thuật vào sản xuất, kiến thiết xây dựng những quy mô hợp tác xã văn minh .Năm 1963 – 1973, Bộ Nông nghiệp tổ chức triển khai những đoàn cán bộ chỉ huy sản xuất nông nghiệp tương hỗ những tỉnh .Năm 1981, Chỉ thị khoán 100 sinh ra. Năm 1988, Nghị quyết 10 sinh ra ( khoán 10 ). [ 20 ]Năm 1988, An Giang xây dựng Trung tâm Khuyến nông. [ 21 ]Năm 1991, Bắc Thái xây dựng Trung tâm Khuyến nông. [ 22 ] Tổ chức Khuyến nông Thái Nguyên ( trước kia là Khuyến nông Bắc Thái ) được xây dựng ngày 13/12/1991 do Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quyết định ; là tổ chức triển khai khuyến nông tiên phong của cả nước ( Trước khi có nghị định số 13 của CP về khuyến nông ) ; sinh ra nhằm mục đích Giao hàng những chương trình tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh. Với chính sách hoạt động giải trí : Lấy nông thôn làm địa phận – Nông dân là đối tượng người dùng – Các ngành nghề trong nông nghiệp là nghành nghề dịch vụ tăng trưởng – Người nông dân được xác lập là TT. Qua hơn 20 năm hoạt động giải trí khuyến nông Thái Nguyên không ngừng tăng trưởng, ngày càng được tăng cường về lực lượng, cơ sở vật chất ; được những tổ chức triển khai quốc tế CIDSE, SNV hợp tác và tương hỗ nâng cao năng lượng, tăng trưởng mạng lưới hệ thống khuyến nông từ tỉnh cho đến cấp xã và thôn, bản. Toàn tỉnh hiện có 142 cán bộ khuyến nông, ở cấp tỉnh là Trung tâm Khuyến nông thường trực Sở Nông nghiệp và PTNT gồm 24 cán bộ với 3 phòng trình độ và 01 trạm chuyên giao TBKT ; ở cấp huyện là những Trạm Khuyến nông thường trực Ủy Ban Nhân Dân của 9 huyện, thành, thị có 118 cán bộ. Ở cấp cơ sở xã, phường, thôn, bản tùy điều kiện kèm theo của những địa phương và từng chương trình nông nghiệp trên địa phận để bố trí lực lượng cộng tác viên khuyến nông là cán bộ thôn, bản, tổ hợp tác, nhóm sở trường thích nghi hoặc nông dân đầu mối tham gia hoạt động giải trí .Năm 1992, Bộ Nông nghiệp và PTNT xây dựng Ban điều phối Khuyến nông .

Giai đoạn 1993 – 2004[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 01/3/1993, nhà nước phát hành Nghị định số 13 / NĐ – CP về Khuyến nông, mạng lưới hệ thống khuyến nông chính thức được hình thành và tăng trưởng. [ 23 ]Ở Trung ương, quy trình tiến độ 1993 – 2004, Cục Khuyến nông – Khuyến lâm thuộc Bộ Nông nghiệp thực thi cả hai tính năng quản trị nhà nước về sản xuất nông nghiệp và hoạt động giải trí sự nghiệp khuyến nông ; Vụ Nghề cá thuộc Bộ Thủy sản cũng thực thi lẫn trách nhiệm quản trị nhà nước và công tác làm việc khuyến ngư .

Giai đoạn 2005 – 2010[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 2005, nhà nước phát hành Nghị định số 56/2005 / NĐ – CP về Khuyến nông, Khuyến ngư, ở TW : Trung tâm Khuyến nông Quốc gia xây dựng ( tách từ Cục Khuyến nông và Khuyến lâm ) thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ; Trung tâm Khuyến ngư thuộc Bộ Thủy sản. [ 24 ]Đến năm 2008, khi hợp nhất Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia cũng hợp nhất thành Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quốc gia .

Hoạt động Khuyến nông ngày nay[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 28/6/2010, nhà nước phát hành Nghị định số 02/2010 / NĐ-CP về Khuyến nông thay Nghị định số 56/2005 / NĐ-CP, cơ quan Khuyến nông TW chính thức là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT. Theo đó, nội dung hoạt động giải trí khuyến nông ngày này như sau :

1. Nâng cao hiệu suất cao sản xuất kinh doanh thương mại của người sản xuất để tăng thu nhập, thoát đói nghèo, làm giàu trải qua những hoạt động giải trí huấn luyện và đào tạo nông dân về kỹ năng và kiến thức, kiến thức và kỹ năng và những hoạt động giải trí đáp ứng dịch vụ để tương hỗ nông dân sản xuất kinh doanh thương mại đạt hiệu suất cao cao, thích ứng những điều kiện kèm theo sinh thái xanh, khí hậu và thị trường .2. Góp phần chuyển dời cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính nông nghiệp theo hướng tăng trưởng sản xuất sản phẩm & hàng hóa, nâng cao hiệu suất, chất lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cung ứng nhu yếu trong nước và xuất khẩu ; thôi thúc tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thiết kế xây dựng nông thôn mới, bảo vệ bảo mật an ninh lương thực vương quốc, không thay đổi kinh tế tài chính – xã hội, bảo vệ thiên nhiên và môi trường .3. Huy động nguồn lực từ những tổ chức triển khai, cá thể trong nước và quốc tế tham gia khuyến nông .

Nguyên tắc hoạt động giải trí[sửa|sửa mã nguồn]

1. Xuất phát từ nhu yếu của nông dân và nhu yếu tăng trưởng nông nghiệp của Nhà nước .2. Phát huy vai trò dữ thế chủ động, tích cực và sự tham gia tự nguyện của nông dân trong hoạt động giải trí khuyến nông .3. Liên kết ngặt nghèo giữa cơ quan quản trị, cơ sở nghiên cứu và điều tra khoa học, những doanh nghiệp với nông dân và giữa nông dân với nông dân .4. Xã hội hóa hoạt động giải trí khuyến nông, đa dạng hóa dịch vụ khuyến nông để kêu gọi nguồn lực từ những tổ chức triển khai, cá thể trong nước và quốc tế tham gia hoạt động giải trí khuyến nông .5. Dân chủ, công khai minh bạch, có sự giám sát của hội đồng .6. Nội dung, giải pháp khuyến nông tương thích với từng vùng miền, địa phận và nhóm đối tượng người tiêu dùng nông dân, hội đồng dân tộc bản địa khác nhau .

Nội dung hoạt động giải trí[sửa|sửa mã nguồn]

Đào tạo, tập huấn, tu dưỡng[sửa|sửa mã nguồn]

Bồi dưỡng, tập huấn cho người sản xuất về chủ trương, pháp lý ; tập huấn, truyền nghề cho nông dân về kiến thức và kỹ năng sản xuất, tổ chức triển khai, quản trị sản xuất kinh doanh thương mại trong những nghành khuyến nông theo pháp luật tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này ; tập huấn cho người hoạt động giải trí khuyến nông nâng cao trình độ trình độ nhiệm vụ .Hình thức đào tạo và giảng dạy : trải qua quy mô trình diễn ; Tổ chức những lớp học thời gian ngắn gắn kim chỉ nan với thực hành thực tế ; Thông qua những phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo : báo, đài, tờ rơi, tài liệu ( sách, đĩa CD-DVD ) ; Qua chương trình huấn luyện và đào tạo từ xa trên kênh truyền thanh, truyền hình, thiết kế xây dựng kênh truyền hình dành riêng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn ; ưu tiên là đào tạo và giảng dạy nông dân trên truyền hình ; Qua trang thông tin điện tử khuyến nông trên internet ; Tổ chức khảo sát, học tập trong và ngoài nước .

tin tức tuyên truyền[sửa|sửa mã nguồn]

1. Phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chủ trương, pháp lý của Nhà nước trải qua mạng lưới hệ thống tiếp thị quảng cáo đại chúng và những tổ chức triển khai chính trị xã hội .2. Phổ biến văn minh khoa học và công nghệ tiên tiến, những nổi bật tiên tiến và phát triển trong sản xuất, kinh doanh thương mại trải qua mạng lưới hệ thống tiếp thị quảng cáo đại chúng, tạp chí khuyến nông, tài liệu khuyến nông, hội nghị, hội thảo chiến lược, hội thi, hội chợ, triển lãm, forum và những hình thức thông tin tuyên truyền khác ; xuất bản và phát hành ấn phẩm khuyến nông .3. Xây dựng và quản trị tài liệu thông tin của mạng lưới hệ thống thông tin khuyến nông ( một quy mô khuyến nông công nghệ cao )

Trình diễn và nhân rộng quy mô[sửa|sửa mã nguồn]

1. Xây dựng các mô hình trình diễn về tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp với từng địa phương, nhu cầu của người sản xuất và định hướng của ngành, các mô hình thực hành sản xuất tốt gắn với tiêu thụ sản phẩm.

2. Xây dựng những quy mô ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp .3. Xây dựng quy mô tổ chức triển khai, quản trị sản xuất, kinh doanh thương mại nông nghiệp hiệu suất cao và vững chắc .4. Chuyển giao hiệu quả khoa học và công nghệ tiên tiến từ những quy mô trình diễn, nổi bật sản xuất tiên tiến và phát triển ra diện rộng .

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories