Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Ph. Ăng-ghen, người đã kiến giải những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật

Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò cốt lõi trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan.

Trong mạng lưới hệ thống đó nguyên tắc về mối liên hệ phổ cập và nguyên tắc về sự tăng trưởng là hai nguyên tắc khái quát nhất. Hai nguyên tắc cơ bản gồm :

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
  • Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản

Ph.Ăng-ghen định nghĩa:

Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy

— Ăng-ghen[1]

và :

Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự móc xích của chúng, trong sự vận động của chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng[2]

Nguyên lý về mối liên hệ phổ cập[sửa|sửa mã nguồn]

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì những sự vật hiện tượng kỳ lạ trong quốc tế chỉ bộc lộ sự sống sót của mình trải qua sự hoạt động, sự tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng kỳ lạ cũng chỉ thể hiện trải qua sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa những mặt của bản thân chúng hay sự ảnh hưởng tác động của chúng so với sự vật, hiện tượng kỳ lạ khác. Đồng thời cũng qua đó phê phán cách xem xét của những nhà siêu hình học .

Đối với những nhà siêu hình học thì những sự vật và phản ánh của chúng vào trong tư duy, tức là những khái niệm đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ vĩnh viễn, phải xem xét từng cái một, cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia

— Ăng-ghen[3]

Quan điểm siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự hình hành và tiêu vong của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật và không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng

— Ăng-ghen[4]

Cơ sở khoa học[sửa|sửa mã nguồn]

Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định chắc chắn trước đó của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của quốc tế là cơ sở của mối liên hệ giữa những sự vật và hiện tượng kỳ lạ. Các sự vật, hiện tượng kỳ lạ tạo thành quốc tế dù có phong phú, phong phú và đa dạng, có khác nhau bao nhiêu, tuy nhiên chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một quốc tế duy nhất, thống nhất – quốc tế vật chất. Engels đã nhấn mạnh vấn đề điều này

Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của Triết học và khoa học tự nhiên

— Ăng-ghen[5]

Theo Hồ Chí Minh thì: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.[6]

Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không hề sống sót khác biệt tách rời nhau mà sống sót trong sự ảnh hưởng tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác lập. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng chứng minh và khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự lao lý sự tác động ảnh hưởng qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa những sự vật, hiện tượng kỳ lạ hay giữa những mặt của một sự vật, của một hiện tượng kỳ lạ trong quốc tế .

Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba đặc thù cơ bản : Tính khách quan, tính thông dụng và tính phong phú, nhiều mẫu mã .

  • Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
  • Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
  • Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

Để khái quát nên đặc thù biến hóa của sự vật, hiện tượng kỳ lạ, Ăng-ghen đã viết rằng :

Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại là vừa cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ nhau…. Ngược lại tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo linh hoạt, không còn biết đến những đường ranh giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến những cái “hoặc là”…. “hoặc là”… “vô điều kiện” nữa (kiểu như: “hoặc là có, hoặc là không”, hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại”). Tư duy biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết bên cạnh cái “hoặc là”… hoặc là” còn có cả cái “vừa là…. Vừa là” nữa. Chẳng hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình trong mỗi lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A, cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa không thể lìa nhau được[7][8]

Theo Lênin: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó[9] và ông cũng cho rằng: Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đên tất cả các mặt của mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó.[10]

Nguyên lý này biểu lộ rõ trải qua sáu cặp phạm trù gồm :

Nguyên lý về sự tăng trưởng[sửa|sửa mã nguồn]

Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự hoạt động và tăng trưởng của sự vật, hiện tượng kỳ lạ. Việc đặt sự vật, hiện tượng kỳ lạ trong trạng thái luôn tăng trưởng là một nguyên tắc quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức là hoạt động, mà không hoạt động thì không có sự tăng trưởng. Nhưng hoạt động và tăng trưởng là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm hoạt động khái quát mọi sự biến hóa nói chung, không tính đến khuynh hướng và hiệu quả của những đổi khác ấy như thế nào. Sự hoạt động diễn ra không ngừng trong quốc tế và có nhiều khuynh hướng .

Quan điểm siêu hình mà điểm trung tâm là quan niệm về tính tuyệt đối không thay đổi của giới tự nhiên, phủ nhận mọi sự biến đổi, mọi sự phát triển trong giới tự nhiên

— Engels[11]

Mỗi một sự tiến bộ trong sự phát triển hữu cơ đồng thời lại là sự thoái bộ, vì nó cũng cố sự phát triển phiến diện và loại trừ khả năng phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau

— Engels[12]

Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì nay đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu

— Engels[13]

Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng – chất và quy luật phủ định. Trong đó:

  • Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
  • Quy luật lượng – chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
  • Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.

Ba quy luật này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành vi .

  1. ^ C.Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, TP. Hà Nội, năm 1994, tập 20, trang 201
  2. ^ Mác, Ph. Ăng-ghen : Tuyển tập, tập V, Nhà xuất bản Sự thật, Thành Phố Hà Nội, 1983, trang 38
  3. ^ Các Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, TP.HN, năm 1994, tập 20, trang 96
  4. ^ Ph. Ăng-ghen, Chống Duy-ring, Nhà xuất bản Sự thật, Thành Phố Hà Nội, năm 1960, trang 39
  5. ^ Các Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, TP.HN, năm 1994, tập 20, trang 721
  6. ^ Hồ Chí Minh : Tuyển tập, tập 2, Nhà xuất bản thực sự, TP. Hà Nội, năm 1980, trang 72
  7. ^ Ph. Ăng-ghen : Chống Duyring, Nhà xuất bản Sự thật, TP. Hà Nội, năm 1960, trang 35-37
  8. ^ Ph. Ăng-ghen : Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Sự thật, Thành Phố Hà Nội, năm 1963, trang 335 – 336
  9. ^ VI.Lê nin : Toàn tập : tập 29, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mat1xcova, năm 1980, trang 239
  10. ^

    VI.Lênin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matcova, 1981, tập 42, trang 359

  11. ^ Ph. Ăngghen : Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, TP.HN, năm 1971, trang 18-19
  12. ^ Các Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, trang 261
  13. ^ C.Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, TP. Hà Nội, năm 1994, tập 20, trang 471

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories