Dư vị yêu thương

Related Articles

Anh : Mùa đông này em muốn đi đâu ?

Em ( bẽn lẽn ) : em muốn về … quê anh !

( Anh cười lớn ) : Thế về quê anh rồi thì cưng muốn đi đâu nữa ?

Em (cười): Em thích đi buôn Đôn, rồi đi hồ Lak, còn lại thì em … em … giao phó hết cho anh đấy …!

( Và cứ thế câu truyện tiếp nối câu truyện, tiếng cười cũng tiếp nối tiếng cười làm cả buổi sáng tinh sương đầu ngày chợt hóa lao xao … )

_________________________

1. Chỉ cần nghe anh hỏi “ Cưng à, lên Daklak em thích đi đâu ”, ngay lập tức, tôi đáp không chần chừ : “ Cho em thăm Buôn Đôn ” dù sau đó anh có ra sức thanh minh “ Bản Đôn giờ đây chả có gì đâu em ạ ” …. ! ?

Tôi nghĩ hoàn toàn có thể với người dân địa phương hay người quen thủy thổ núi đồi cao nguyên như anh, buôn Đôn chỉ là … buôn Đôn giống bao buôn làng nhưng với tôi thì khác. Ngay từ tấm bé câu hát “ chú voi con ở bản Đôn, chưa có ngà nên còn trẻ con, từ rừng già chú đến với người, rất ham ăn với lại ham chơi … ” cùng nhịp chân nhún nhảy, chiếc gùi đong đưa trong đêm lửa trại đã làm tôi ao ước có một ngày được đến bản Đôn nhìn tận mắt, sờ tận nơi những chú voi con yêu yêu đang huơ vòi đùa nghịch … Rồi mươi, mười lăm năm sau, cô bạn thân cùng khoa sư phạm có dịp đi du lịch cùng trường cô ấy đến huyện Lắc, vừa về là rủ rỉ kéo tôi vào quán cafe, say sưa kể cho tôi nghe bao nhiêu chuyện lạ. Có một ngày đến bản Đôn thôi mà sáng thì vượt cầu treo, xuôi thuyền độc mộc qua sông Sê Rê Pôk, trưa ăn cơm lam-gà nướng, chiều tà cưỡi voi ngắm mặt trời lặn, đêm xuống nghe tiếng cồng chiêng rền vang thăm thẳm đại ngàn … Cô còn cười khúc khích, bảo đến buôn Đôn đúng mùa liên hoan nên còn được xem con gái Tây Nguyên … bắt chồng, y hệt như chị em Hơ Nhí thúc voi đến tận sàn nhà bắt nghiến lấy chàng Đam San ấy …

Nghe như thế, làm sao không háo hức? Cho nên mặc kệ anh có xua tay, thuyết phục thế nào tôi vẫn quyết: “Phi bản Đôn … bất thành Daklak!”

2. Một tuần sau, anh ra trường bay đón tôi cùng nụ cười ấm cúng, vòng tay ôm chặt và ánh mắt chứa chan làm những nắng, những gió, những hanh hao bao ngày phút chốc nhòa đi, lấp lóa sau cái lạnh cuối đông … Tháng 12, quỳ hoa vẫn còn nở rộ, khoe sắc cùng những cung đường xanh non đương lên màu lộc mới như thể thay tôi vấn đáp câu hỏi “ Dã quỳ ơi, 30 năm còn nở … ? ” hôm nào .

Sau phút giây ùa vào nhau thật nồng nàn, chúng tôi lên xe, buôn Đôn thẳng tiến, để lại sau sống lưng phố núi một sáng “ đầy sương ” và cả những bước chân còn chưa kịp đi hết dăm phút để biết “ trời đất thật hiền ”. Để lại cả câu hỏi do dự “ Một ngày bên nhau, ngắn quá, biết mình có kịp về chốn cũ không anh … ? ” mấy phút trước còn lộng lẫy tràn đáy mắt …

3. Ra khỏi thành phố, đường đất nhỏ hẹp dần. Những tàng cây xanh cho bóng mát cao sừng sững dần nhường chỗ cho cà phê, bắp ngô, khoai mì trải dài xa hun hút. Đất đỏ, bụi mù, lá khô cũng tung lên từng đợt theo vết bánh xe lăn… Tôi ngạc nhiên nhìn mỗi nếp nhà, sân bãi, ruộng vườn vuột qua tầm mắt. Buôn Đôn và những vùng ven Dalat nếu xét về địa lý có khi cách xa nhau đến gần 400 km, thế mà ở đâu cũng có nét hao hao tựa như nhau. Những tấm lưng sau chiếc áo hoa bạc màu gầy cong đang đều đều nhấp nhô tay cuốc, tay xới của các chị, các mẹ. Những nụ cười hồn nhiên và đôi tay nhọ nhem quệt ngang vầng trán đẫm mồ hôi của các em thơ. Trục đường chính vào vụ thu hoạch trải đầy cà phê và ngô sắn. Tiếng lục lạc của trâu bò trong dong gõ nhịp. Cả cái mùi hoi hoi, nồng nồng của đồng đất vừa qua mùa cày ải cũng giống nhau như thể được cắt ra từ cùng một bờ sông hay đồng bãi nào đó bao đời vẫn giữ vẹn an yên …

(Những chiếc gùi mang hình ảnh Tây Nguyên)
(Những chiếc gùi mang hình ảnh Tây Nguyên)
(Và rượu Amakong được bày bán, chào mời ... )
(Và rượu Amakong được bày bán, chào mời … )

Anh kể, buôn Đôn hay bản Đôn cũng chỉ là một. Do nằm giáp biên giới với Campuchia, lại là vùng đông dân tộc bản địa Ba Na, Ê Đê, M’nông và cả người Lào sinh sống nên nền văn hóa truyền thống có sự trộn lẫn rất mê hoặc. Bản hay buôn đều có nghĩa là làng, còn “ đôn ” theo tiếng Lào nghĩa là hòn đảo, nên “ buôn đôn ” hay bản đôn đều là nghĩ là “ làng hòn đảo ” – vì buôn Đôn nằm ngay trên con thác 7 nhánh, bên kia là dòng Sêrêpôk chảy ngược từ đông sang tây đêm ngày cuồn cuộn, phía bên kia là rừng vương quốc Yok Đôn nên nhìn từ trên cao, cả buôn làng như hòn hòn đảo nhỏ xanh tươi sống hiền hòa giữa đại ngàn trùng trùng điệp điệp … Tên là thế, ý nghĩa là thế nhưng buôn Đôn giờ không còn xanh tươi nữa. Du lịch chắp vá, góp vốn đầu tư không đúng mức đã góp thêm phần tàn phá vạn vật thiên nhiên, biến buôn Đôn vốn hoang dã và xinh đẹp rất lâu rồi thành một cô gái đua đòi, diêm dúa và rỗng tuếch … Nghe anh nói, nhìn anh cau mày, tôi lặng lẽ cười. Có lẽ, cái buồn chán của anh cũng giống cái ấm ức của tôi khi nghe hành khách than phiền, châm biếm về thác Cam Ly hay dinh Bảo Đại ở Dalat. Càng yêu, càng thương, càng giận đây mà !

Sau hơn 50 phút đi xe, anh dừng lại, Open, chỉ cho tôi thấy lăng vua voi Amakong nằm khuất lấp bên vệ đường. Ồ, thì ra ông nằm ở đây ! Giữa trưa nắng gắt, ngôi mộ kẻ sọc xanh đỏ, chóp cao nghều đổ bóng trùm lên cây cối hoang vu làm tôi không khỏi chạnh lòng nghĩ đến câu thơ lưu truyền “ Mỹ nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu … ” ! Một “ danh tướng ” lão luyện và lẫy lừng với biệt hiệu “ Nghệ nhân săn voi giỏi nhất Tây Nguyên ” như ông giờ cũng đã yên nghĩ ở đây, lặng lẽ, phôi pha như bao con người có tên và không tên khác, dù từ mộ ông ra đường lớn chỉ cách non chục bước chân …

Tôi không dám nói khi Ama Kông qua đời, Tây Nguyên coi như gấp lại trang sách đầy hào sảng về một thời săn voi kiêu hùng giữa đại ngàn, vĩnh viễn không khi nào lặp lại như những trang báo đã viết về ông – ngày ông mất – nhưng đi sâu hơn vào buôn Đôn, tôi không khỏi ngậm ngùi nhìn những thớt voi già nua chân đeo dây xích đi đứng nặng nề, uể oải nhai chút cỏ khô, nhiều lúc lại nhúc nhích tấm thân lừ đừ vẫy đuôi đuổi muỗi …

Nghe nói hơn 10 năm nay buôn Đôn không có voi con bởi voi trưởng thành phải ra sức cùng người tham gia làm du lịch để thiết kế xây dựng đời sống mới ! Anh sĩ quan biên phòng đi cùng chúng tôi ngậm ngùi nói nhỏ “ Rừng kiệt rồi, gỗ không cho chặt, voi không đi kéo gỗ, không đi thồ hàng thì phải đi làm dịch vụ, chở người để nuôi người nên chả còn sức đâu mà yêu đương, lấy gì sinh con đẻ cái, cứ đà này sẽ đến một ngày buôn Đôn cũng chỉ còn là lịch sử một thời, như lịch sử một thời về vua voi Amakong mà thôi ”. Nghe thật nao lòng ! Vẫn biết tự ngàn xưa, ở chốn đại ngàn voi với người là bạn, và còn hơn cả bạn. Khi voi mất đi, người ta làm ma chay, chôn cất, khóc than, tiễn đưa và lập cả nhà mồ cho voi như cho một thành viên trong mái ấm gia đình về chốn vĩnh hằng … Vậy mà giờ đây từng con voi được mang ra phẫu thuật, tận thu cho đến khi sức voi hết sạch, thân voi gục xuống …

Mãi đưa mắt dõi theo hướng nhìn của một chú voi già trong khu du lịch, tôi không nhận ra anh đã đến bên tôi tự khi nào. Ôm nhẹ vai, anh bảo bè bạn đang mời tất cả chúng ta lên sống lưng voi vượt thác đấy, em có dám đi không ? Tôi cười … Chắc anh không biết, thời xưa tôi đã từng cưỡi voi không cần bành và leo lên sống lưng voi từ chiếc vòi đong đưa vĩ đại chứ không phải leo bằng cách đạp lên chiếc móc sắc mà người nài voi đang giữ trong tay … Hơn hai mươi năm trước, 5 anh chị em chúng tôi, những đứa trẻ thị thành lần đầu về Đa Me sống suốt mấy tháng hè với mái ấm gia đình người dì họ xa của mẹ trong một bản làng trộn lẫn giữa người Kinh, người Thái, người Tày và người Mèo nằm lọt thỏm trong lòng chảo xanh tươi dưới chân núi Voi. Tôi chẳng biết người ta nuôi voi để làm gì, chỉ biết buổi sáng khi chúng tôi còn rúc mình cuộn tròn trong chăn ấm thì tiếng lục lạc dưới chân voi đã khua leng keng trên đường làng còn mỗi khi chiều về, khi ánh nắng khởi đầu nhạt màu và đám trẻ chúng tôi cũng đã khởi đầu thấm lạnh sau khi đùa nghịch chán chê bên bờ suối cạn thì cũng là lúc voi trở về làng. Cứ nhìn thấy những chấm xám lừng lững vận động và di chuyển từ phía rừng xanh và nghe tiếng tù và rúc lên âm âm vọng sâu vào thung lũng là chúng tôi chạy ào vào nhà, lựa những khúc mía ngon nhất, những lá khoai mì tươi nhất hay những quả xoài ngọt lịm cầm sẵn trên tay, đứng hai bên đường chờ đón làm quà tặng cho voi. Voi cũng quý trẻ con, nhìn thấy chúng tôi là khua vòi, giậm chân tất tả, mặc kệ anh nài voi thúc gót vào hông giục giã … Chủ nhật, chủ voi đi lễ nhà thời thánh thì voi cũng được nghĩ việc, tha hồ ở nhà lừ đừ, lim dim nhai cỏ ngọt trong sân. Ấy cũng là lúc chúng tôi bày trò làm nhà, đánh trận giả, chơi trốn tìm dưới chân voi hay bám vòi voi leo lên sống lưng, phất cờ lau hò hét …

Giờ đây, trước mặt tôi không phải là những chú voi cường tráng, chạy băng băng đầy hứng khởi trong tiếng cổ vũ náo nhiệt hay cuộn vòi đón lấy tấm mía đầy tình thương và sự thân thiện của trẻ con mà là những con voi già run run stress chỉ muốn được tháo ách nghỉ ngơi. Làm sao tôi hoàn toàn có thể gật đầu cho mình cái thú trèo lên mình voi, lắc lư vượt thác. Làm sao tôi hoàn toàn có thể bắt con voi vừa ngật ngưỡng suốt một ngày quần quật lội suối vừa về đến sân đã phải bị đóng bành, lê chân đi “ làm du lịch ” dù tôi biết nếu tôi gật đầu, chiều nay chủ voi sẽ có thêm ít tiền giàn trải và biết đâu, tối nay khẩu phần rất ít của con voi già sẽ có thêm bó mía nhỏ hay quả chuối, quả cam …

Nhẹ nhẹ khước từ, tôi tách mình ra khỏi anh, đi về phía chú bé Ê Đê đang đứng chơi dưới chân cột nhà sàn, đưa cho chú ít tiền nhờ chú mua giúp bó mía và quầy chuối mật gửi lại cho voi rồi cùng anh lên xe qua đồi Tâm Linh, để lại sau sống lưng một buôn Đôn về chiều vẫn còn rộn rịp khách du lịch và oi ả mùi mồ hôi người, mồ hôi voi cuộn lên trong nắng gió …

(Trích “Nhật ký ngày về”)

___________

( * ) Một câu trong bài hát “ Bên Cầu Biên Giới ” của cố nhạc sĩ Phạm Duy

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories