Bơ thực vật – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Một loại sản phẩm bơ thực vật

Bơ thực vật là một thuật ngữ chỉ chung về các loại bơ có nguồn gốc từ thực vật và là loại bơ được chế biến từ dầu thực vật qua quá trình hydro hóa để làm thành dạng cứng hoặc dẻo và có thể đóng thành bánh. Trong quá trình hydro hóa, phần lớn acid béo không no (chưa bão hòa) chuyển thành acid béo no (bão hòa) và trong quá trình hydro hóa, một phần không ít các acid béo bị chuyển vị (dạng trans).

Một cách định nghĩa khác thì bơ thực vật là một thành phần nhũ tương được chế biến từ một hỗn hợp nhiều loại dầu mỡ nguồn gốc động vật hoang dã hay thực vật, nước, sữa tách kem cùng một vài chất phụ gia khác. Bơ thực vật và bơ là hai loại bơ phổ cập nhất giờ đây, có quan điểm cho rằng sử dụng bơ thực vật sẽ bảo đảm an toàn cho tim của bạn hơn bơ thường .

Bơ thực vật có tên gốc tiếng Anh là margarine, tên này được xuất phát từ oleomargarine của Hippolyte và sau này bằng sáng chế ra margarine đã được Hippolyte bán lại cho một công ty Hà Lan có tên là Jurgens vào năm 1871 (công ty này là tiền thân của Unilever hiện nay). Ngày nay, từ margarine nói chung trên thế giới được dùng để chỉ cho tất cả các chất thay thế cho bơ và không chỉ được sản xuất bởi mỡ bò và dạ dày Heo mà còn được sản xuất từ dầu thực vật như dầu hoa hướng dương, dầu đậu nành … nên mới hay được gọi là bơ thực vật ở Việt Nam.

Ba mẫu bơ thực vậtVào năm 1813 thì hình thức sơ khai của bơ thực vật đã được Michel Eugène Chevreul khám phá ra trong phòng thí nghiệm. [ 1 ] [ 2 ]

Vào năm 1869, Napoleon III đã ra chiếu chỉ rằng ông sẽ trao giải cho bất cứ ai tìm ra được chất thay thế cho bơ. Napoleon III muốn có một cái gì đó ăn vẫn ngon như bơ nhưng rẻ hơn bơ và có thể dễ dàng sản xuất để cung cấp cho giới công nhân lao động và binh lính của ông ta.[3]

Hưởng ứng lời lôi kéo đó, nhà hóa học người Pháp có tên Hippolyte Mège-Mouriés đã dày công điều tra và nghiên cứu và tìm ra được một hợp chất tương đối thơm ngon khi phối hợp mỡ bò với dạ dày heo và đặt tên cho hợp chất này là oleomargarine ( xuất phát từ acid margaric và acid oleic ). [ 4 ]

Mặc dù khá thơm ngon nhưng sự phát triển và lan tỏa của loại thức ăn mới này ra ngoài thế giới lại bị ngăn trở khá lớn bởi những nông trại tại Mỹ vì lo sợ sẽ bị cạnh tranh. Tại Úc cũng không khá hơn, cho tới thập niên 1960 thì người dân Úc mới được phép mua bơ thực vật có màu như bơ.[5]

Trong một tiểu luận đăng trên báo “Sự thật” số ngày 20 tháng 7 năm 1912, Lenin phân tích về tình hình tiêu thụ margarine ở các nước châu Âu và cho thấy rằng, người tiêu dùng chủ yếu của margarine là người bình dân nghèo không có khả năng mua bơ thật; đồng thời lượng tiêu thụ margarine lớn lại xảy ra ở Đan Mạch, một trong những nước xuất khẩu rất nhiều bơ sữa lúc đó. Nông dân hạng trung của sản xuất bơ sữa để bán còn bản thân mua margarine rẻ tiền để tiêu thụ. “Sự giàu có của tư bản Đan Mạch tăng lên thì sự bần cùng và thiếu thốn của công nhân và nông dân Đan Mạch cũng tăng lên. Ở nước Nga chúng ta tình hình cũng diễn ra y như vậy […] người giàu thì được lãi do phát triển sản xuất và buôn bán, còn công nhân và nông dân chỉ được ăn margarine và bã sữa.”

Bơ thực vật được làm từ dầu thực vật nên không chưa cholesterol. Hơn nữa nó còn chứa lượng chất béo lành mạnh hơn bơ thường. Những chất béo này giúp giảm tỷ lệ cholesterol xấu. Trong khi đó, bơ làm từ chất béo động vật hoang dã nên chứa cholesterol và nhiều chất béo bão hòa. Tuy sáng tạo độc đáo sử dụng bơ thực vật để sửa chữa thay thế cho bơ động vật hoang dã theo mong ước của Napoleon III từ rất lâu rồi cho tới nay vẫn còn được sử dụng và có giá trị nhưng cũng cần sử dụng những loại bơ thực vật chứa những chất có hại cho sức khỏe thể chất ở hàm lượng được cho phép và tránh không lạm dụng dẫn tới việc gây hậu quả xấu cho khung hình .Có khuyến nghị cho rằng bơ thực vật không nên ăn nhiều và chỉ là nguyên vật liệu thuận tiện cho việc sản xuất thực phẩm như mỳ ăn liền, những loại bánh ngọt. Ở nhiều mức, người ta lao lý chỉ bán những loại bơ thực vật ( margarine ) trên nhãn mác có ghi ” 0 ” axit béo chuyển vị cho người tiêu dùng trực tiếp. Nguyên nhân là hầu hết những bơ thực vật được chế biến bằng cách sử dụng giải pháp hydro hóa, thường gây ra những sự chuyển hóa chất béo không lành mạnh. Nhìn chung, những bơ thực vật càng rắn thì lượng chất béo chuyển hóa càng cao – thế cho nên bơ thực vật dạng thanh thường chứa nhiều chất béo chuyển hóa hơn bơ thực vật dạng ống. Giống như chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa làm tăng cholesterol trong máu và rủi ro tiềm ẩn bị bệnh tim .

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories