Ba Nhân Đức Đối Thần Trong Đời Sống Kitô Hữu: 1. Đức Tin – Giáo Phận Cần Thơ

Related Articles



print

Ba Nhân Đức Đối Thần

Trong Đời Sống Kitô Hữu

 I. Đức Tin

“ Hãy kiến thiết xây dựng đời mình

trên nền tảng đức tin rất thánh của đồng đội. ” ( Gd 1,20 )

Tự trong thâm tâm, tất cả chúng ta nghiệm thấy mình cần đến đức tin trong mọi khoảng thời gian ngắn của cuộc sống. Đức tin thiết yếu để đón nhận Lời Chúa ; để nghe được tiếng Chúa ; để sống thánh ý Chúa ; để vững vàng trong những lúc gian truân ; để đi vào đời sống hiệp thông ; để phó dâng đời mình và những người thân yêu vào vòng tay Chúa ; để thanh luyện và thay đổi bản thân từng ngày, v.v.

Nếu tất cả chúng ta muốn hoàn thành xong kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc sống mình, thì phải có một đức tin ngày càng vững mạnh. Không phải đợi đến lúc khẩn thiết mới kiến thiết xây dựng và ngày càng tăng đức tin, nhưng phải thao tác ấy ngay giờ đây, vì “ lúc này là lúc thuận tiện ; ngày hôm nay là ngày cứu độ ” ( 2C r 6,2 ). Thiên Chúa ở ngay trong hiện tại, và cũng chính trong hiện tại mà tất cả chúng ta hiện hữu. Sự hiện hữu chỉ đích thực khi ta hiện hữu với toàn bộ đức tin. Sẽ không có gì cho ngày mai, nếu đức tin không sáng lên từ ngày hôm nay. Chỉ có đức tin mới làm đẹp lòng Thiên Chúa và làm đẹp cuộc sống tất cả chúng ta ( Dt 11,6 ) .

  1. Thuật ngữ “Đức Tin”

Đức Tin (tín đức) trong Hán văn cho ta hiểu được ý chính như sau:

Đức (德): ơn ; Tin (tín) (信): đón nhận, nghe theo. Đức Tin: ơn đón nhận, vâng theo.

Thuật ngữ “ Đức Tin ” có gốc trong Hy văn là pistis ( πιστις ) : là tin yêu với niềm tin phó thác vững vàng. Tùy theo nội dung văn bản, thuật ngữ “ đức tin ” trong Hy văn hoàn toàn có thể hiểu là “ trung tín ”, “ chung thủy ” hoặc “ trung kiên ” ( 1 Tx 3,7 ; Tt 2,10 ). Trong Tân Ước có một từ cùng nguồn gốc với danh từ pistis ( πιστις ) biểu lộ ý niệm về đức tin là động từ pisteuo ( πιστευω ). Động từ này có hai nghĩa cơ bản :

  • Nghĩa thứ nhất là “ tin vào điều ai đó nói, đồng ý một lời công bố ( mang tính tôn giáo ) là đúng ” [ 1 ]
  • Nghĩa thứ hai là “ an toàn và đáng tin cậy người nào, khác với tin suông một điều gì ” [ 2 ]. Nghĩa thứ hai này luôn được nhận ra qua việc sử dụng giới từ :

+ Giới từ εν (en) được sử dụng trong Phúc Âm

Mc 1,15: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

+ Giới từ εις (eis) được dùng trong Cv 10,43: “…phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.  

+ Thánh Gioan đề cập đến việc tin vào danh Chúa Giêsu: εις το ονομα (eis to onoma): “…những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Cấu trúc này có nghĩa đặc biệt đối với người Do Thái vốn xem danh tánh của một người là tương đương với người đó. Vì thế, tin vào danh Chúa Giêsu là đặt lòng tin cá nhân vào Ngài[3].

Như vậy, đức tin cần có cho sự cứu rỗi gồm có “ tin rằng ” và “ tin vào ”, tức là gật đầu một thực sự và tin vào một ai đó. Nhất thiết cả hai phải song song với nhau .

Luận giải về chức năng của đức tin trong mối tương quan với giao ước của Thiên Chúa, tác giả thư Do Thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Trong Hy văn: Hypostasis (Υποστασις) được dịch là “sự bảo đảm”, thường xuất hiện trong các văn bản giao dịch cổ viết trên giấy papyrus. Moulton và Milligan cũng diễn giải như thế: “Đức tin là hành động bảo chứng cho những gì đang được mong đợi”[4].

Chính thế cho nên mà Giáo Lý Hội Thánh phân biệt giữa tin như một hành vi ( actus ), và tin như thể một nhân đức ( virtus ). Nhân đức là cái gì bền chắc, đã ăn rễ sâu thành tập quán. Đức tin không chỉ là một hành vi, nhưng còn là một thái độ, một tâm tình, một quan điểm, một não trạng, một nếp sống. Tin không chỉ là hiệu quả của nỗ lực con người, nhưng thứ nhất là một hồng ân của Thiên Chúa. Đó là những đặc tính của đức tin, một nhân đức đối thần ( virtutes theologicae ), nhờ đó tất cả chúng ta tin yêu vào Chúa, gật đầu tổng thể những gì Ngài phán dạy và mạc khải … chính bới Ngài là chân lý ( GLCG 1814 ) .

“ Đức tin ” không chỉ củng cố thêm cho “ niềm tin ” được vững chãi, mặc kệ những thử thách, nhưng còn đổi khác toàn thể con người tất cả chúng ta : nó giúp ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng của Chúa, nhìn nhận mọi vật dưới ánh sáng của Tin Mừng, không theo thị hiếu của trần gian. Đức tin còn giúp ta ngày càng gắn bó với Chúa hơn, khát mong được kết hiệp với Ngài, chiêm ngưỡng và thưởng thức Ngài diện đối lập ( x. GLCG 2609 ; 2709 ) .

  1. Ý nghĩa và nội dung của Đức Tin

a.Tin là đáp lời Thiên Chúa

Đức tin đặt nền trên sự mặc khải của Thiên Chúa : “ Với tình thương chan chứa, Thiên Chúa vô hình dung đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu. Ngài đối thoại với họ để mời gọi và đảm nhiệm họ hiệp nhất với Ngài ( MK 2 ). Vậy “ Nếu mặc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước lời nói của Thiên Chúa ” ( Augustinô ). Thơ Do Thái diễn giải ý nghĩa và vai trò của đức tin như sau : “ Không có đức tin thì không hề làm đẹp lòng Thiên Chúa ; vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa, và tin Ngài là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài ” ( 11,6 ) .

Ðức tin là lời đáp trả của con người tổng lực trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người tổng lực ấy gồm có cả lý trí, ý chí, tình cảm, mong ước và hành vi, nghĩa là đặt trọn bản thân qui hướng về Ngài ( x. DV 5 ). Vì thế, thánh Phaolô nói đến sự vâng phục trong đức tin ( x. Rm 1,5 ; 16,26 ), vì chỉ một mình Thiên Chúa là Chân lý ban sự sống. Niềm tin vào Thiên Chúa phải là sự gắn bó tổng lực và tuyệt đối trong mọi thực trạng .

Vì tin, Abraham đã vâng lời “ ra đi mà không biết mình đi đâu ” ( Dt 1,8 ), nhưng ông “ vẫn trông cậy, mặc dầu không còn gì để trông cậy ” ( Rm 4,18 ) .

Vì tin, Mẹ Maria đã thưa với sứ thần : “ Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói ” ( Lc 1,38 ). Mẹ cũng đã đi vào tận “ đêm hôm của đức tin ” [ 5 ] để hiệp thông với khổ hình thập giá và tử nạn của Con .

b. Tin là gắn bó với Chúa Cha, qua Chúa Con, nhờ Chúa Thánh Thần. 

Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào Ðấng Ngài sai đến là Ðức Giêsu Kitô ( x. Ga 1,18 ; 6,28 – 29 ), là Con Chí Ái của Chúa Cha ( x. Mc 1,11 ). Thiên Chúa dạy tất cả chúng ta phải nghe lời Ðấng ấy ( x. Mc 9,7 ). Chính Đức Giêsu cũng nói với môn đệ : “ Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” ( Ga 14,1 ), vì “ ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha ” ( Ga 14,9 ). Nhưng tất cả chúng ta chỉ hoàn toàn có thể đi vào đời sống đức tin nhờ được đảm nhiệm Thánh Thần của Ðức Giêsu, vì “ Không ai hoàn toàn có thể nói rằng : Ðức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí ” ( 1 Cr 12,3 ) .

c. Tin là ân ban và là tự do đón nhận.

Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho những tín hữu ( Mt 16,17 ), để họ gắn bó toàn vẹn với Người ( fides qua ) và đảm nhiệm những chân lý do Ngài mạc khải ( fides quae ) trong Đức Giêsu Kitô ( x. MK 5 ). Chính Ngài đi bước trước và trợ giúp từ bên trong : “ Ngài thôi thúc và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi tiếp đón và tìm theo chân lý ” ( MK 5 ) .

Đức tin là một hồng ân nhưng đồng thời cũng là hành vi nhân linh, vì ân huệ Thiên Chúa không xóa đi năng lực hiểu biết và ý chí của con người, nhưng soi sáng, nâng đỡ và mời gọi cộng tác. Do đó, tin cũng chính là hành vi tự do, vì “ Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá con người do chính Ngài tạo nên, con người ấy phải được tự do và được hướng dẫn theo phán đoán của mình ” ( TD 11 ) .

Khi rao giảng, “ Ðức Giêsu đã trợ giúp và xác nhận lời giảng thuyết của Ngài bằng những phép lạ, để khơi dậy và củng cố lòng tin của thính giả, nhưng Ngài không hề tạo áp lực đè nén cưỡng ép họ ” ( TD 11 ) .

d. Tin là hành động

Vì đức tin là sự gắn bó tổng lực con người với Thiên Chúa, nên không hề ngưng lại ở những hiểu biết suông mà phải dẫn tới hành vi. Do đó, thánh Gioan nói đến việc “ thực thi chân lý ” và thánh Giacôbê gọi “ đức tin không có hành vi thì quả là đức tin chết ” ( Gc 2,17 ). Người tín hữu phải luôn tự cẩn trọng trước Lời Chúa nói : “ Không phải bất kỳ ai thưa : Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! ” là được vào Nước Trời cả đâu. Những chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời mới được vào mà thôi ” ( Mt, 7,21 ) .

Ðức tin là yên cầu nhất thiết để được cứu độ, như Ðức Giêsu đã nói với những môn đệ khi Ngài từ cõi chết sống lại : “ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cứu độ cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin, sẽ bị phán quyết ” ( Mc. 16,15 – 16 ). Ơn cứu độ ấy sẽ hoàn thành xong trong ngày sau hết, nhưng ngay từ giờ đây, đức tin cho ta nếm hưởng ánh sáng vĩnh cửu, “ bảo vệ cho những điều ta kỳ vọng ” ( Dt 11,1 ), nên đức tin là khởi điểm của đời sống vĩnh hằng. Với một đức tin sôi động, người tín hữu bước vào đời thờ phượng và luân lý. Nhờ cầu nguyện, ta gặp gỡ chính Ðấng mà ta tin. Niềm tin đích thực được bộc lộ qua đời sống hằng ngày : “ Căn cứ vào điều này, tất cả chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta biết Thiên Chúa, đó là tất cả chúng ta tuân giữ những điều răn của Người ” ( 1G a 2,3 ) .

Cha Charles de Foucauld đã xác quyết về một đức tin đích thực [ 6 ] : là đức tin chi phối mọi hành vi ; đức tin lột cái bộ mặt hình thức bề ngoài của quốc tế ra, và cho thấy Thiên Chúa trong mọi sự ; đức tin làm cho những lo âu, sợ hãi không còn ý nghĩa nữa ; đức tin làm cho con người tiến bước trong cuộc sống với một vẻ bình tĩnh, một sự bằng an, một niềm vui sâu thẳm, như một đứa bé nắm tay mẹ hiền ; đức tin đặt linh hồn vào một thái độ thanh thoát trọn vẹn so với mọi sự khả giác nhờ thấy rõ tính hư vô của chúng. Đức tin còn cho ta nhận ra rằng : ngoài việc làm đẹp lòng Chúa, thì toàn bộ chỉ là hư không ; đức tin làm cho ta thấy sự cao quý của Thiên Chúa, cho thấy rõ cái nhỏ xíu của ta. Đức tin khiến ta dám quyết tử tổng thể vì lòng thương mến Chúa mà không chần chừ, không hổ thẹn, không sợ hãi, không chùn bước khi nào .

e. Loan truyền Đức Tin

Ðức tin là một hành vi cá thể : con người tự nguyện đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, Ðấng tự mặc khải. Nhưng đức tin không phải là một hành vi riêng rẽ, vì không ai hoàn toàn có thể tin một mình, cũng như không ai hoàn toàn có thể sống một mình. Không ai tự ban cho mình đức tin, cũng như không ai tự ban cho mình sự sống .

Ta tiếp đón đức tin nên cũng phải loan truyền đức tin. Đức Gioan Phaolô II đã viết : “ Đức tin được đào sâu khi nó được thông truyền ”. Tình yêu của tất cả chúng ta so với Ðức Giêsu và tha nhân, thúc giục tất cả chúng ta nói với người khác về Đức Tin của tất cả chúng ta. Như thế, mỗi tín hữu là một mắc xích trong dây chuyền sản xuất to lớn những tín hữu. Tôi không hề tin mà không có đức tin của người khác đỡ nâng, và với đức tin của tôi, tôi góp thêm phần vào việc nâng đỡ đức tin của kẻ khác ( GLCG 875 ) .

Là môn đệ Ðức Kitô, ta không chỉ gìn giữ, bảo vệ và sống đức tin, nhưng còn tuyên xưng, làm chứng và truyền bá đức tin : “ Mọi tín hữu phải sẵn sàng chuẩn bị tuyên xưng Ðức Kitô trước mặt mọi người và bước theo Ngài trên đường thập giá ” ( x. LG 42 ; DH 14 ). Đó là niềm vui ơn cứu độ của tất cả chúng ta, vì “ Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng nhận người ấy trước mặt Cha Thầy … ” ( Mt 10,32 – 33 ). Do đó có những tội phản nghịch cùng đức tin như : cố ý hồ nghi hay không tin những điều Chúa dạy ; hổ thẹn không dám tỏ mình là người Công giáo ; liều mình trong những dịp nguy hại hoàn toàn có thể mất đức tin ; ở đầu cuối là chối đạo hay bỏ đạo ( GLGH 1816 ) .

  1. Con đường Đức Tin

Đức tin là cuộc hành trình dài đầy gay cấn và thử thách, là một cuộc chiến đấu liên lỉ suốt đời. Chúng ta cần dựa vào Tin Mừng để soi dẫn và làm vững mạnh đức tin của mình .

a. Phải tin trước hết (Mt 9, 27-31)

Tin Mừng Matthêu thuật lại việc hai người mù xin Chúa Giêsu cứu chữa. Ngài hỏi : “ Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không ? ”. Thông thường những vị thầy thuốc chữa lành trước, rồi người ta mới tin sau, còn Chúa Giêsu đòi người ta tin trước khi chữa lành, vì Ngài không muốn người ta đến với Ngài theo kiểu khấn vái cầu may, được chăng hay chớ. Ngài yên cầu người ta nếu muốn được giải thoát hay chữa lành thì phải dám buông mình trong đức tin để Ngài hành vi. Và nếu đức tin còn yếu, Ngài sẽ ban thêm, nhưng không dùng quyền lực để áp đặt .

Chính trong đức tin mà người ta nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh hơn là một người hành nghề lang y. Chúa Giêsu chuẩn bị sẵn sàng làm mọi điều để thỏa đáng những nhu yếu chính đáng của con người, nhưng Ngài không hề làm gì được cho những kẻ không tin. Đòi hỏi phải có đức tin, vì mọi hành vi của Ngài đều nhằm mục đích nâng cao đời sống tâm hồn của con người hơn là xử lý thực trạng trước mắt. Đôi mắt được sáng ra không bằng tâm hồn được sáng lên. Sáng mắt chẳng có ý nghĩa gì khi tâm hồn vẫn chìm ngập trong u tối. Phải gặp được Chúa Giêsu để biến hóa cái nhìn và não trạng, đó mới là sự chữa lành tận gốc .

Có một số ít người mù từ bẩm sinh đã được chữa khỏi, họ nhìn thấy quốc tế chung quanh quả là kỳ diệu, khác xa với những gì mà họ tưởng tượng trước đó. Trên ý nghĩa ý thức cũng vậy, chỉ khi gặp được Chúa, đôi mắt tâm hồn ta mới sáng lên để nhìn thấy mọi sự khác hẳn với những gì mình thường tâm lý hay mường tượng, cũng như từng phán đoán và nhận định và đánh giá trước đây. Dưới cái nhìn đức tin, mọi sự đã mặc lấy một ý nghĩa khác .

Trong ánh sáng đức tin, ta không còn bị chận đứng ở mặt phẳng của hiện tượng kỳ lạ hay hình tướng bên ngoài, nhưng vào bên trong để hoàn toàn có thể nhìn thấy thực ra của yếu tố, tình hình của tâm hồn, trong thực tiễn của thực trạng, thực tính của một lời nói, thực tâm của một thái độ hay hành vi .

Trong ánh sáng đức tin, ta sẽ thấy mọi biến cố đều có ý nghĩa, mọi khoảng chừng thời hạn đều là ân ban và là cơ may. Nhờ vậy, ta không còn chủ quan, độc đoán hay lạnh nhạt lãnh đạm so với đời sống của mình cũng như của tha nhân. Tha nhân dù có thấp hèn đến đâu đi nữa, ta cũng vẫn thấy được những phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa. Như Đức Bênêđictô đã nói : “ Đức tin giúp tất cả chúng ta hiểu rằng đời sống của mỗi người là vô giá vì mỗi người trong tất cả chúng ta là hoa trái của tình yêu. Thiên Chúa yêu thương mọi người, kể cả những ai đã rời xa hay xem thường Ngài. Thiên Chúa vẫn luôn kiên trì chờ đón ” [ 7 ] .

Trong ánh sáng đức tin, ta thấy thất bại, khổ đau là điều thiết yếu cho sự khởi đầu ơn cứu độ. Nhưng rồi mù quáng trong đức tin vẫn là cơn cám dỗ không ngừng của kiếp người. Thứ mù quáng đáng sợ là người ta không còn nhận ra và gật đầu sự mù quáng của mình. Chúa Giêsu từng lên án thái độ đó của Biệt phái, là những người cứ cuộn mình trong nấm mồ tối tăm của thành kiến và mớ kỹ năng và kiến thức hạn hẹp .

b. Đức Tin khám phá (Mc 4, 35-41)

Trước cuồng phong kinh hoàng, từng đợt sóng lớn ập vào khiến thuyền ngập đầy nước cơ hồ muốn chìm, những môn đệ dù là những dân chài kinh nghiệm tay nghề, cũng đành bó tay trước cơn nguy khốn. Các ông cuống cuồng thức tỉnh Chúa Giêsu, và xin Ngài cứu kẻo họ chết mất. Ngài đã cứu họ không phải bằng một kỹ năng và kiến thức hàng hải mà bằng một lệnh truyền cho sóng gió yên lặng .

Cuộc đời như biển cả bát ngát, có những lúc biển đời lặng lẽ, có những lúc phong ba bão táp như thất bại, tai ương, bệnh tật, khốn khó, khiến ta hoang mang lo lắng sợ hãi, cuống cuồng không kém những môn đệ. Thế nhưng giông tố cuộc sống xem ra lại thiết yếu để ta nhận diện con người mình : con người yếu ớt, mong manh, bất lực, dễ bị chao đảo và cuốn mất theo dòng đời. Đến lúc chẳng còn ai hoàn toàn có thể cứu ta được ngoài một mình Chúa .

Thật ra, Chúa thấy trước mọi sự xảy ra trong cuộc sống ta, nhưng rồi nhiều khi Ngài vẫn lặng yên như không thấy. Có khi tất cả chúng ta cũng trách Ngài như những môn đệ : “ Chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao ? ”. Có vẻ như Chúa quá vô tư, lãnh đạm và ơ hờ. Trách Chúa cũng là trách chính bản thân ta, nhiều khi cũng chỉ lo sống cho riêng mình mà quá lạnh nhạt lãnh đạm với Chúa. Chỉ khi nguy ngập mới lạy lục kêu van. Hóa ra, tất cả chúng ta chỉ coi Chúa như tượng thần hộ mệnh, cần thì đem ra hô hoán, không cần thì dẹp vào. Nhưng rồi Chúa vẫn đồng ý và bí mật chờ đón ta lên tiếng. Không phải ta lên tiếng rồi Chúa mới nghe, nhưng Ngài vẫn nghe trước khi ta lên tiếng .

Sau khi truyền cho sóng biển lặng yên, Chúa Giêsu trách những môn đệ : “ Sao nhát thế ? Làm sao mà đồng đội vẫn chưa có lòng tin ”. Nói cách khác : Sóng gió làm gì được đồng đội khi Thầy đang ở với bạn bè, bên cạnh bạn bè. Nhưng chính qua cơn giông bão mà những môn đệ đặt lại yếu tố con người Chúa Giêsu cách sâu xa hơn : “ Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh ? ” .

Qua mỗi biến cố, ta lại tò mò thêm sự hiện hữu và quyền lực của Chúa Giêsu trong cuộc sống mình, ngay bên mình. Thuyền đời Kitô hữu chẳng khi nào dịu dàng êm ả, nó chỉ êm ả dịu dàng khi về tới bến quê bình an. Nhưng rồi ta phải biết giữ cho lòng mình vững vàng giữa những nguy hại, không hoang mang lo lắng, không tuyệt vọng, dù Chúa vẫn ngủ yên. Vấn đề không phải là sự bất động của Chúa, mà là sự náo động của ta : ở bên Chúa mà niềm tin vẫn xa rời, sống bên Chúa mà lo âu vẫn không ngơi. Khám phá thêm về Chúa cho ta thấy rõ thêm về con người mình .

c. Đức Tin cần trợ giúp (Lc 5, 17-26)

Tin Mừng kể lại việc người bại liệt tự bản thân không đến được với Đức Giêsu, mà phải nhờ đến sự trợ giúp nhiệt tình của bốn người khiêng. Những người này không hề vào nhà bằng cửa chính vì quá đông dân chúng, họ phải tìm con đường gay go hơn bằng cách leo lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả bệnh nhân cùng với cái giường xuống trước mặt Chúa Giêsu. Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo : “ Này anh, anh đã được tha tội rồi ” .

Bao người con đã được cứu chữa hoặc trở thành người tốt nhờ đức tin của ông bà, cha mẹ, bạn bè, bạn hữu, cũng như những người chung quanh. Sử gia tân tiến T. Carlyle cho biết, có vẻ như tiếng mẹ ông luôn vang vọng bên tai : “ Con hãy đáng tin cậy Chúa và làm điều lành ”. Đức tin giúp ta nhận ra sự hoạt động giải trí của Chúa qua những người thân cận, nhất là những lúc ngặt nghèo không hề tự mình đứng vững và vươn lên. Không có sự trợ giúp nhiệt tình của họ, không biết đời ta sẽ thế nào ? Đến phiên ta cũng vậy, cần chăm sóc nâng đỡ và tương hỗ những người cùng khổ. Chúa muốn qua ta, Ngài ban ơn cứu độ cho mọi người. Hãy làm cho đồng đội điều gì đó trước sự khốn quẫn của họ, để khơi dậy một niềm tin .

Hơn nữa, phải nhận rằng, những cảm nhận thiêng liêng của ta cũng thường qua sự giao hảo với anh chị em mình : sự chăm sóc và trợ giúp của họ khiến ta thoát khỏi sự bế tắc nơi chính mình ; gương sáng và việc lành của họ là động lực giúp ta tin cậy giữa những nguy hiểm gian truân ; nhìn thấy việc cầu nguyện và lao vào của họ khiến ta thoát ra khỏi sự nguội lạnh ơ hờ. Quả thực, nhờ anh chị em mà đời sống ta thêm tin yêu và kỳ vọng .

d. Đức Tin kiên trì (Ga 9, 1-41)

Người mù từ bẩm sinh đã được chữa lành nhờ như mong muốn gặp được Chúa Giêsu. Nhưng lại không may vì là ngày Sabbat, nên vấn đề lại trở nên rắc rối. Nhóm Biệt phái đã từng chống đối Chúa Giêsu, nay lại thêm tức tối về vấn đề này, nên kinh khủng tra hỏi anh mù về việc được sáng mắt. Họ đưa ra những lý lẽ để phán quyết Chúa Giêsu, và khư khư đòi anh phải phủ nhận Ngài, không được coi Ngài là người bởi Thiên Chúa mà đến .

Cũng như nhóm Biệt phái, kinh nghiệm tay nghề thiêng liêng cho ta thấy mình sáng mắt nhưng không sáng lòng ; thấy vấn đề nhưng không thấy thực sự ; thấy dấu lạ mà không thấy Chúa. Lý do hoàn toàn có thể vì ta cứng ngắc trong một lề thói, cứng đọng theo một lối tâm lý, chỉ dựa vào luật lệ và đạo đức bên ngoài. Lý do khác nữa là vì tự ái, thành kiến, quyền hành, Gianh Giá, nhất là vì ghanh tỵ mà ta muốn suy diễn khác đi .

Hơn nữa, nhóm Biệt phái càng không muốn chân nhận Chúa Giêsu, vì điều đó đòi họ phải biến hóa lối tâm lý và cách sống đạo, phải biến hóa bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin theo Ngài. Họ tự hào mình đã hiểu biết khá đầy đủ và đạo đức rồi. Niềm tự hào này khiến họ khép lại, không có can đảm và mạnh mẽ gật đầu mình sai lầm đáng tiếc, và cố chấp ở lại trong bóng tối .

Ai cũng cho mình là thông sáng, nhưng có những lúc ta tự làm cho mình mù : khi không muốn đồng ý thực tiễn về bản thân và tha nhân ; khi tránh mặt thực sự và không muốn nghe ai. Trên con đường đức tin, có những khi ta giống như những Biệt phái, từ ánh sáng lại rơi vào bóng tối. Cần tìm lại ánh sáng bằng tấm lòng khiêm nhường và tiếp đón thực sự. Nhưng rất tiếc, đang khi anh mù vui mừng vì tìm lại được ánh sáng thì thử thách lại ập tới. Người ta hoài nghi anh, xoi mói anh, gây khó khăn vất vả và rình rập đe dọa đời sống anh. Dù anh ta có được đời sống mới, nhưng mái ấm gia đình và những người thân trong gia đình lại phủ nhận, bỏ rơi, vì sợ liên lụy. Sự căng thẳng mệt mỏi lên đến cực điểm khi anh phải cạnh tranh đối đầu với quyền lực tối cao tôn giáo : là những người dạy dỗ, hướng dẫn, và là mẫu gương sống đức tin cho dân Chúa. Họ mạt sát anh là người sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi vi phạm nghỉ ngày Sabbat .

Và ở đầu cuối, họ khai trừ anh khỏi Hội đường. Đây là hình phạt nặng nề, nhục nhã nhất so với người Do Thái. Bị giáo quyền khai trừ, bị người thân trong gia đình chối từ, bị dân chúng xa lánh, anh đau lòng, tủi hổ, cảm thấy đơn độc trọn vẹn, một thử thách quá sức. Để giữ vững niềm tin, anh đành đồng ý hành trình dài đơn độc. Để sống cho thực sự, anh đồng ý bị loại trừ. Anh lựa chọn dứt khoát : dám mất tổng thể để trung tín với niềm tin của mình. Lúc khổ tâm nhất cũng là lúc Chúa Giêsu Open để nâng đỡ và khen thưởng đức tin kiên cường của anh. Anh gặp lại Ngài với niềm vui khôn tả .

Hành trình đức tin của mỗi người tất cả chúng ta cũng vậy, không thiếu những thử thách và bóng tối vây quanh, đòi ta phải kiên tâm đến cùng. Đức tin Chúa ban cho tất cả chúng ta giống như viên ngọc quí, nhưng “ ngọc bất trác bất thành khí ”, đức tin mà không được tinh luyện trong thử thách sẽ trở thành vô hiệu. Từng biến cố gay go trong đời đều là thời cơ để làm sáng lên đức tin : một đức tin hoàn toàn có thể còn mù mờ và bị bao trùm bởi nhiều bóng tối : bóng tối của lòng mình, của anh chị em, của đời sống cộng đoàn .

Chúa đang đón đợi mỗi người tất cả chúng ta trên từng chặng đường và từng biến cố lớn nhỏ, để làm sáng lên cuộc sống ta. Đức Bênêđictô XVI khẳng định chắc chắn rằng : “ Trở thành Kitô hữu không phải là tác dụng của sự lựa chọn đạo đức hoặc ý tưởng sáng tạo hùng vĩ, mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, đem lại cho đời sống mình một chân trời mới và một hướng đi quyết định hành động ” [ 8 ] .

e. Đức Tin làm nên phép lạ (Lc 17, 5-10)

Hơn hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn liên tục làm phép lạ cho những ai tin vào Ngài. Mỗi cuộc sống Kitô hữu là một phép lạ khác thường. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu đã khẳng định chắc chắn với tất cả chúng ta : “ Nếu bạn bè có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù đồng đội có bảo cây dâu nầy : hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời bạn bè ” .

Chúa Giêsu không muốn nói đức tin như một sức mạnh phù phép hay bùa chú để làm những chuyện dị thường. Nhưng Ngài muốn nói : đức tin là một động lực thôi thúc tất cả chúng ta dám nghĩ và dám thực thi những điều tốt đẹp mà thông thường không ai dám. Bởi vì người có đức tin thì hành vi bằng thế lực của Thiên Chúa ban, không dựa vào năng lực của mình. Chúa Giêsu đã quả quyết : “ Thật, Thầy bảo thật đồng đội, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, do tại Thầy đến cùng Chúa Cha ” ( Ga 14,12 ) .

Chính nhờ đức tin thôi thúc mà biết bao Kitô hữu đã sống cách anh hùng, cao vượt, dám quyết tử đời mình cho tự do và chính nghĩa, dám từ bỏ mọi sự để lao vào ship hàng tha nhân trong những trại cùi, trại mồ côi, trại khuyết tật, trại AIDS, v.v. Đức tin được biểu lộ và sôi động bằng đức ái : trong sự ship hàng và làm tôi tớ cho mọi người một cách vô điều kiện kèm theo. Với đức tin, người ta coi sự Giao hàng mọi người như lẽ sống đời mình, đó là thái độ Giao hàng vô kỷ, vô công, vô danh, vô cầu, vô lợi. Ta có làm được điều gì tốt đẹp thì đó là việc phải làm, là bổn phận phải thi hành, không có gì để vênh vang tự đắc. Đức tin không yên cầu điều gì khác hơn trong sự ship hàng, mà chỉ vì phúc lợi của tha nhân, vì tin rằng cũng là ship hàng chính Chúa. Phép lạ của lòng tin là thế, biến đời sống này nên tốt đẹp, bình an và niềm hạnh phúc cho nhau .

Đức tin có một sức bật kỳ diệu. Nhà vật lý Archimède đã nói : “ Nếu hoàn toàn có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài thiên hà, thì với một đòn kích bẩy, người ta hoàn toàn có thể nâng bổng cả ngoài hành tinh lên ”. Và văn hào Kierkegaard đã lý giải : “ Điểm tựa ấy chính là đức tin ”. Đức tin hoàn toàn có thể đổi khác một xã hội mục nát, một quốc tế đầy bất công, đấm đá bạo lực, chia rẽ … thành một vương quốc của tình yêu huynh đệ, thành một “ Trời Mới Đất Mới ” toàn vẹn trong ngày cánh chung .

g. Đức Tin của lòng khiêm hạ (Mt 8, 5-11)

Đây là câu truyện viên đại đội trưởng đến xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho nô lệ mình. Ông ngỏ lời điềm đạm, không dám thúc bách hay yên cầu Chúa. Ông chỉ trình diễn thực trạng đau đớn của nô lệ ông với tổng thể lòng thương cảm. Chúa Giêsu nhận lời đi ngay, nhưng ông lại thưa : “ Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là nô lệ tôi khỏi bệnh ” .

Với tư cách là sĩ quan, ông có quyền lệnh cho lính đến mời Chúa Giêsu, thế nhưng ông lại thân hành đến với tâm tình và thái độ của kẻ thấp bé. Ông có quyền làm mà không làm, để rồi làm như một người không có quyền làm. Lòng tin nơi ông đã sinh một thái độ khiêm hạ so với Chúa Giêsu, khiến ông đáng yêu quí hơn .

Lòng tin còn khiến ông nhìn Đức Giêsu là một Lang Y vượt trên mọi lang y khác, không cần chữa bằng thuốc men mà bằng thần lực của Ngài. Lòng tin đó không còn nằm trên bình diện tự nhiên nữa, nhưng là lòng tin siêu nhiên. Lòng tin đó là một ân ban, nhưng chắc như đinh nó phải phát xuất từ một tâm hồn trong sáng, đầy yêu thương, không bị che lấp bởi thành kiến, đam mê, dục vọng, để hoàn toàn có thể cảm nhận sâu xa về con người Giêsu. Chính nhờ đức tin mà ông vượt qua hàng rào tẩy chay và khinh bỉ của người Do Thái để đến với Chúa Giêsu. Họ khinh bỉ ông vì ông là dân ngoại, mà dân ngoại thì bị coi là ô uế, cả nơi ăn chốn ở. Hơn nữa, họ còn căm thù ông vì là quân xâm lược. Ông biết và gật đầu điều đó, nên ông không dám để Chúa Giêsu đến nhà. Những điều đó đã làm Chúa Giêsu quá bất ngờ và lên tiếng : “ Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như vậy ” .

Chúa Giêsu tôn vinh lòng tin, vì lòng tin hoàn mỹ hóa con người, làm sáng lên những đức tính khác. Sự nhã nhặn, yêu thương, kính trọng, nhã nhặn, hiền hòa nơi viên bách quản, chính là hoa trái của lòng tin nơi ông. Chính do lòng tin mà con người đạt tới ơn cứu độ. Đang khi đó thì người Do Thái tự hào cách sai lầm đáng tiếc rằng, mình là dân ưu tuyển của Thiên Chúa, đương nhiên được cứu độ. Nhưng rồi Chúa Giêsu cho biết : “ Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng những tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải mếu máo nghiến răng ” ( Mt 18,11 – 12 ). Đời sống ta cũng vậy, ơn gọi Kitô hữu hay tận hiến không làm ta trở nên công chính, nhưng là đức tin .

h. Đức Tin bừng sáng (Mt 28, 8-15)

Sau khi được thiên thần báo tin Chúa Giêsu đã sống lại, những phụ nữ tuy sợ nhưng hớn hở vui mừng chạy về báo tin cho những môn đệ Chúa. Nhưng vui mừng hơn nữa khi Chúa Giêsu đón gặp những bà. Họ tiến lại ôm chân Chúa, bái lạy Ngài. Bao nhiêu sầu thương, lo âu và tuyệt vọng của những bà giờ đây biến thành niềm hân hoan không hề tả được. Sự thật là những bà không dám nghĩ tới việc Chúa sống lại, và cũng đã quên Lời Chúa đã báo trước đó, có nhớ chăng cũng chẳng dám tin là như vậy. Nỗi bi thương và tình cảm bi lụy đã ép chế lý trí và cả lòng tin .

Đó cũng là kinh nghiệm tay nghề về lòng tin của ta khi gặp thử thách nguy hiểm trong đời. Có những lúc ta gần như vô vọng, thấy rằng tin vào Chúa cũng chẳng tới đâu, nhất là khi đứng trước ngôi mộ buồn của đời mình. Tiếc thay, Chúa vẫn cho những dấu chỉ mà ta không thấy, vẫn khơi lên niềm kỳ vọng mà ta không hay, vẫn bí mật đón đợi mà ta không biết, vẫn nâng đỡ ta bằng mọi cách mà ta không nhận ra …

Nhiều khi ta chỉ lo quay quắt với những nỗi chua cay và buồn chán của mình, yên cầu thực trạng và vấn đề phải diễn tiến theo ý mình, mà không hay rằng Chúa đang đem lại một sức sống mới cho mình. Sức sống mới đó đòi ta phải gột rửa lòng mình, phải thanh tẩy trí não của mình qua những thử thách và đau thương. Đức tin hoàn toàn có thể lớn lên được không, ơn gọi hoàn toàn có thể vững vàng và tăng trưởng được không, nếu không qua những đau thương trong đời, kể cả những vấp ngã ?

Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã trở thành thực tại cho những môn đồ xưa, thì nay cũng trở thành hiện tại cho tất cả chúng ta. Chính từ đó mà ta mới nói tới sứ mạng hay sứ vụ loan báo Tin Mừng của người môn đệ Đức Kitô. Sứ vụ đó chính là hiệu quả của một lòng tin bất diệt, của một lòng thương mến khác thường. Sứ vụ của Đấng Phục Sinh phải được liên tục, nghĩa là Tin Mừng cứu độ phải được loan báo cho đồng đội lương dân. Chính tại Galilê, những môn đệ mới hiểu toàn vẹn ý nghĩa mệnh lệnh của Chúa Giêsu : “ Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ ” .

Đang khi những đồ đệ vui mừng vì sự sống mới đã bừng lên, thì đám lính canh lại rơi vào sự mê hoặc của bóng tối. Tiền bạc và lợi lộc lại phủ kín lòng người trước thực sự. Đừng quên rằng, thời điểm ngày hôm nay cũng như thời xưa, người ta luôn tìm cách trù dập chân lý, bưng bít chân lý, phủ nhận chân lý. Chân lý chẳng khi nào bị dập tắt, nhưng điều hệ trọng là tất cả chúng ta phải góp thêm phần biểu lộ và loan truyền chân lý. Chẳng ai hoàn toàn có thể trở thành Kitô hữu đích thực mà lại thiếu một bầu nhiệt huyết trở nên chứng nhân cho Tin Mừng .

  1. Đức Maria – Mẹ của Đức Tin

Nhìn ngắm Đức Maria, ta nhận ra một sự vâng phục tuyệt diệu trong đức tin, vì có biết bao điều Mẹ chẳng hiểu gì :

Làm sao hiểu được khi một Đấng Cứu thế mà phải sinh ra trong nơi tồi tàn như thế ? Là con Thiên Chúa mà phải trốn chui trốn nhủi dưới tay người đời vậy sao ? Là Đấng đem lại sự sống và lại sống quá nghèo nàn đến nỗi bị mọi người khinh khi coi thường vậy ư ? Làm sao hiểu được khi Mẹ tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu bị chống báng, vu cáo, hành hình và tử nạn trên thập giá, nhất là khi Mẹ ôm lấy xác con mình ? Thế thì những lời truyền tin từ khoảng thời gian ngắn đầu có nghĩa lý gì ? Mẹ được gọi là Đấng đầy ơn phúc mà chẳng thấy phúc, chỉ thấy họa. Là người có Thiên Chúa ở cùng mà chỉ thấy khốn khó và đau thương. Được bà Isave tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa nhờ sự soi sáng của Thánh Thần, mà trong thực tiễn trước mắt người Do thái, Mẹ chỉ là mẹ một tên gian phi. Mẹ được ơn vô nhiễm và trọn đời đồng trinh, nhưng những hậu quả mẹ gánh chịu như thể một người tội lỗi, vì so với người đời, không có nhân thì sao lại có quả ?

Dưới mắt trái đất tất cả chúng ta hoàn toàn có thể là như vậy. Nhưng qua toàn bộ những điều đó mà ta thấy Đức Maria đã đạt tới đỉnh điểm của đời sống đức tin. Vì chỉ một lần vướng mắc, Mẹ không khi nào vướng mắc nữa. Mẹ có suy đi nghĩ lại để tìm hiểu và khám phá ý nghĩa của những biến cố, nhưng không hề nghi nan, nao núng. Mẹ đã xin vâng theo ý Chúa nên không khi nào đặt lại yếu tố, dù trước mắt là bóng đêm của huyền nhiệm và những tình cảnh éo le mà không ai hoàn toàn có thể lý giải được. Tuyệt vời thay ! Mẹ đã hóa giải bằng đức tin sâu thẳm, bằng tình mến sâu xa .

Vì trọn vẹn tin yêu vào Chúa, nên Mẹ trọn vẹn bình tâm giữa mọi thử thách. Không gì hoàn toàn có thể ràng buộc Mẹ ngoài một mình Chúa là tự do của đời Mẹ. Vì trọn vẹn tin yêu nên Mẹ trọn vẹn niềm hạnh phúc, và được gọi là Đấng Toàn Phúc. Mẹ thật sự có buồn rầu ( stabat Mater ), nhưng không phải buồn rầu cho mình mà cho số kiếp tội nhân. Mẹ thật sự có đau lòng, nhưng không phải đau lòng cho mình, mà đau nỗi đau của Chúa Giêsu trước sự cố chấp của con người. Chúng ta hướng nhìn về Mẹ để sống đức tin vô giá của mình. Trong đời sống có những điều ta hiểu được, nhưng có biết bao điều ta không hiểu được, thậm chí còn có những cái vô lý, bất công và tàn ác. Hiểu hay không hiểu thì điều chính yếu là luôn mở lòng để tiếp đón Thánh Ý Chúa trong cuộc sống .

Chúng ta cũng hướng về Thánh Giuse, một con người chỉ biết hành vi theo đức tin ; luôn chuẩn bị sẵn sàng sống chết cho dự tính của Thiên Chúa. Điều cần nêu lên là : giữa Đức Maria và thánh cả Giuse, tuy đức tin mỗi người mỗi vẻ, nhưng mười phân vẹn mười. Mỗi người theo vai trò và tính năng của mình, nhưng đức tin sôi động của hai Đấng đều tuyệt mỹ. Cũng như hai Đấng, Chúa đang tạo ra sự đời sống của ta trong từng biến cố theo dự tính mầu nhiệm của Ngài. Điều cần là ta đừng để cho mình bị dính bén, bị trói buộc vào nụ cười, tiền tài, của cải, Gianh Giá, quyền hành, chức tước … Trong đức tin, ta cứ phải buông bỏ không ngừng, để hoàn toàn có thể đảm nhiệm sự sống rất thiêng của Chúa đang trao ban cho ta qua từng thời gian : “ Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt gắn chặt vào Ðức Giêsu là Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin tất cả chúng ta ” ( Dt 12,1 – 2 ) .

Lm. Thái Nguyên

[ 1 ] Bultmann, Rudof. Theological Dictionary of the New Testament, vol. 6, p. 203 .

[ 2 ] Abbot-Smith, G. A Manual Lexicon of the Greek New Testament ( Edinburg : T&T. Clark, 1937 ), p. 361 – 62 .

[ 3 ] Ladd, Theology of the New Testament, p. 271 – 72 .

[ 4 ] Từ vựng Tân Ước Hy văn, 1963, p. 660 .

[5] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, số 18.

[ 6 ] http://www.tinmung.net/THIENCHUA/SongDuoiConMatChua/Giatriductin.htm

[ 7 ] Sứ điệp chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Quốc Tế Giới Trẻ 2013 .

[ 8 ] Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est, số 11 .

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories