Việt Nam Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Việt Nam Cộng hòa (viết tắt VNCH; tiếng Anh: Republic of Vietnam; tiếng Pháp: République du Viêt Nam, viết tắt RVN) là một cựu quốc gia tồn tại từ năm 1955 đến năm 1975.

Trong các tài liệu nước ngoài hoặc quốc tế, chính phủ này còn được gọi là South Vietnam (Nam Việt Nam) để chỉ vị trí địa lý kể từ khi Hiệp định Genève được ký kết và Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa bác bỏ việc thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vào năm 1956 theo Hiệp định Genève với lý do họ không ký hiệp định này. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối chọi với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập năm 1969 do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lãnh đạo.

Nguồn gốc của Việt Nam Cộng hòa bắt nguồn từ Chiến tranh Đông Dương. Sau Thế chiến II, phong trào Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Cuối năm 1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Việt Nam. Năm 1949, bằng một hiệp định với thực dân Pháp, một nhóm chính trị gia chống Cộng đã thành lập Quốc gia Việt Nam với Bảo Đại là Quốc trưởng. Sau khi Pháp thất bại và rút quân về nước năm 1954, Hoa Kỳ thế chỗ Pháp, tiếp tục hậu thuẫn chế độ Quốc gia Việt Nam nhằm ngăn chặn việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản toàn bộ đất nước. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Bảo Đại vào năm 1955 sau một cuộc trưng cầu dân ý được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955, với Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên.[1] Chính phủ này lập tức được Hoa Kỳ công nhận và lần lượt có quan hệ ngoại giao với 77 quốc gia. Năm 1957, Việt Nam Cộng hòa đệ đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc nhưng đề nghị này bị Liên Xô phủ quyết.[2][3] Sau những hỗn loạn nội bộ ngày càng gia tăng, Ngô Đình Diệm bị ám sát trong cuộc đảo chính năm 1963 do tướng Dương Văn Minh cầm đầu và được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Sau đó, một loạt chính quyền quân sự được thành lập nhưng liên tục sụp đổ do các cuộc đảo chính lẫn nhau. Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau đó nắm quyền trong giai đoạn 1967–1975 sau cuộc tuyển cử tổng thống.

Sự khởi đầu của Chiến tranh Việt Nam diễn ra vào năm 1959 khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ( mà Mỹ gọi là Việt Cộng ) được xây dựng với viện trợ, trang bị từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô, những nước trong Hiệp ước Warsaw, Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Cuộc chiến Việt Nam leo thang về quy mô khi những lực lượng quân đội Hoa Kỳ và liên minh trực tiếp tham chiến vào năm 1965, tiếp theo là những đơn vị chức năng bộ binh Hoa Kỳ để bổ trợ cho đội ngũ cố vấn quân sự chiến lược hướng dẫn những lực lượng của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Một chiến dịch ném bom liên tục ở miền Bắc Việt Nam đã được những phi đội không quân Hoa Kỳ thực thi từ những tàu trường bay của Hoa Kỳ từ năm 1966 và 1967. Chiến tranh Việt Nam đã đạt đến đỉnh điểm trong sự kiện Tết Mậu Thân tháng 2 năm 1968, khi có hơn 600.000 lính Mỹ và liên minh ( Úc, New Zealand, Nước Hàn, Thailand ) cùng 600.000 lính Việt Nam Cộng hòa tham chiến ở miền Nam Việt Nam, cùng với thủy quân và không quân Hoa Kỳ bắn phá miền Bắc Việt Nam .Sau một thời hạn đình chiến với Hiệp định Paris ký tháng 1 năm 1973, cuộc chiến tranh Việt Nam liên tục cho đến khi quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiến vào Hồ Chí Minh vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, tiếp sau đó là việc thống nhất hai miền quốc gia vào ngày 2 tháng 7 năm 1976 lập ra nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam .

Tên gọi

” Việt Nam ” là tên gọi được vua Gia Long đặt ra vào năm 1804. [ 4 ] Đây là một biến thể của ” Nam Việt ” ( chữ Hán : 南越, cái tên được sử dụng trong thời cổ đại. [ 4 ] Vào năm 1839, vua Minh Mạng đã đổi tên thành ” Đại Nam “. [ 5 ]

Tiền thân của Việt Nam Cộng hòa là Quốc gia Việt Nam do Pháp[a] thành lập năm 1949, trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương. Ngày 26 tháng 10 năm 1955 thì chính thức đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa. Tên chính thức của Việt Nam Cộng hòa dịch sang tiếng Pháp được gọi là République du Viêt Nam. Tuy vậy, thuật ngữ “South Vietnam” thường được sử dụng phổ biến ở phương Tây vào năm 1954, khi Hội nghị Genève phân vùng Việt Nam thành 2 vùng tập kết quân sự tạm thời. Các tên khác mà chính phủ này thường tự gọi mình trong thời gian tồn tại là “Chính phủ Việt Nam” hoặc “Chính phủ quốc gia”.

Lịch sử

Quốc gia Việt Nam 1949 – 1955

Tiền thân của Việt Nam Cộng hòa là Quốc gia Việt Nam, một cơ quan chính phủ do Pháp xây dựng năm 1949, trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương. Quốc gia Việt Nam có trách nhiệm tương hỗ quân Pháp chống lại trào lưu kháng chiến chống Pháp của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do quản trị Hồ Chí Minh chỉ huy .

Đệ Nhất Cộng hòa 1955 – 1963

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ ( 1954 ) và ký Hiệp định Genève, Quốc gia Việt Nam cùng Pháp tập trung về vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam .

Tướng Edward Lansdale, Chỉ huy cố vấn Mỹ ở Việt Nam .Theo kế hoạch, quân Pháp sẽ rút dần sau 2 năm và Việt Nam sẽ triển khai Tổng tuyển cử thống nhất quốc gia. Tuy nhiên, báo cáo giải trình của CIA cho Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower thấy rằng khoảng chừng 80 % dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành [ 6 ]. Không thể đồng ý việc Hồ Chí Minh sẽ thắng cử và lập cơ quan chính phủ trên hàng loạt chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không hề diễn ra nhằm mục đích chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thành 2 vương quốc. Hoa Kỳ muốn có một cơ quan chính phủ chống Cộng sống sót ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ nước nhà đó có tôn trọng dân chủ hay không [ 7 ] .

Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward Lansdale (sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953) đã huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch “bình định Việt Minh và các vùng chống đối” [8]. Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1/1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho Quốc gia Việt Nam. Thượng nghị sĩ (4 năm sau trở thành Tổng thống) John F. Kennedy tuyên bố vào ngày 1/6/1956:

“Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa khi nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (…). Đó là con đẻ của chúng ta – chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó” [9].

Trong những năm 1954 – 1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu USD giúp trang bị cho những lực lượng thường trực Quốc gia Việt Nam, gồm 170.000 quân và lực lượng công an 75.000 quân ; 80 % ngân sách quân sự chiến lược của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có toàn bộ 800 chuyến tàu chở vũ khí và phương tiện đi lại quân sự chiến lược của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì cỗ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ .

Vận động trưng cầu dân ý năm 1955 đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền .Đến lúc này lại xảy ra xích míc giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm với Quốc trưởng Bảo Đại ( nguyên là Hoàng đế nhà Nguyễn ). Năm 1955, với tác dụng cuộc trưng cầu dân ý gian lận ( mà những tài liệu thời nay của nhà nước Việt Nam thường gọi là ” trò hề trưng cầu dân ý ” [ 10 ] ), Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống tiên phong của chính phủ nước nhà Việt Nam Cộng hòa [ 11 ]. Sau đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức triển khai bầu cử Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này phát hành Hiến pháp xây dựng Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở thừa kế Quốc gia Việt Nam, TP. hà Nội là thành phố TP HCM, ngày phát hành Hiến pháp 26 tháng 10 trở thành ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tài chính tư bản chủ nghĩa và được Mỹ trợ giúp, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam .Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông đề ra chủ nghĩa ” Cần lao Nhân vị “, duy trì thực trạng trái chiều với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khoảng chừng 5 năm, Việt Nam Cộng hòa đã có một số ít thành tựu : xã hội không thay đổi, kinh tế tài chính tăng trưởng, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, xây dựng Viện Đại học Huế …Tuy nhiên, chính quyền sở tại Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giới trái chiều xem là cơ quan chính phủ độc tài gia đình trị, từ từ tích góp nhiều xích míc nội bộ. Từ năm 1955 và đặc biệt quan trọng là từ 1959, cùng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ ( do quan ngại ảnh hưởng tác động của trào lưu Việt Minh ), chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm thực thi chủ trương đàn áp những người cộng sản, tố cộng diệt cộng trên hàng loạt Nam Việt Nam, dựa theo Luật 10-59 ( luật đạo lao lý việc thiết lập những phiên tòa xét xử quân sự chiến lược đặc biệt quan trọng để xét xử những phạm nhân bị tình nghi là ủng hộ Việt Minh và chủ nghĩa cộng sản ) [ 12 ]. Phong trào Đồng khởi năm 1960 ( do Đảng Lao động Việt Nam chỉ huy ) và cuộc hòn đảo chính hụt năm 1960 là những đòn giáng mạnh vào chính sách Ngô Đình Diệm .Mâu thuẫn tôn giáo cũng trở nên nóng bức. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc cấm treo cờ Phật giáo ở Huế đã gây ra phản ứng can đảm và mạnh mẽ từ những Phật tử, dẫn đến những hoạt động giải trí đàn áp Phật giáo của chính quyền sở tại. Việc Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu giữa đường phố TP HCM cùng những phát biểu của bà Ngô Đình Nhu ( tức Dân biểu Trần Lệ Xuân ) làm chính sách Ngô Đình Diệm bị báo chí truyền thông phương Tây đả kích kịch liệt và mất hết mọi sự ủng hộ từ phương Tây .

Xác Ngô Đình Diệm bị quân thay máu chính quyền bắn chết ở trong chiếc xe thiết giáp M113 .Ngày 1 tháng 11 năm 1963, nền Đệ Nhất Cộng hòa bị lật đổ bởi một nhóm quân nhân dưới sự chỉ huy của một số ít tướng lĩnh ( trong đó có tướng Dương Văn Minh ) ; về sau, ngày này được xem là ngày Quốc khánh của Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam. Cả ba bạn bè Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn đều bị giết. Theo băng ghi âm tại Nhà Trắng, tổng thống Kennedy nói rằng ông bàng hoàng về cái chết của 2 đồng đội Diệm và Nhu, cái chết của hai người thật là kinh điển [ 13 ] .

Theo như hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, chính CIA đã hỗ trợ cho việc lật đổ và sau này McNamara xem đó là một sai lầm nghiêm trọng mà Hoa Kỳ mắc phải[14]. Khi được thông báo anh em Ngô Đình Diệm đã bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đã vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp: “C’est formidable! C’est formidable!” (Thật là tuyệt diệu. Thật là tuyệt diệu)[15].

Kể từ đây, sự phụ thuộc vào của Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ của Hoa Kỳ ngày càng lớn, cả về kinh tế tài chính cũng như về quân sự chiến lược. Sự can thiệp của Tòa đại sứ Mỹ vào việc làm nội bộ về chính trị và quân sự chiến lược của Việt Nam Cộng hòa ngày càng lên cao .

Thời kỳ quân quản 1963 – 1967

Tiếp sau đó là quá trình khủng hoảng cục bộ chỉ huy chính trị ở miền Nam bởi một loạt những cuộc thay máu chính quyền liên tục cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu thiết lập nền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam .Trong thời hạn 18 tháng sau cuộc thay máu chính quyền 1963, miền Nam phải tận mắt chứng kiến hơn 10 cuộc khủng hoảng cục bộ chính trị ( cuộc thay máu chính quyền năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh ; xây dựng Tam đầu chế ; trào lưu chống Hiến chương Vũng Tàu ; cơ quan chính phủ dân sự Trần Văn Hương lên rồi đổ ; cơ quan chính phủ dân sự Phan Huy Quát lên rồi đổ ; thay máu chính quyền hụt ngày 13 tháng 9, 1964 của tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát ; thay máu chính quyền hụt ngày 20 tháng 2, 1965 của đại tá Phạm Ngọc Thảo ). Phe quân đội lần lượt hạ bệ lẫn nhau cùng những chính phủ nước nhà dân sự liên tục được dựng lên rồi lại phải rút lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, những khối Phật giáo và Công giáo cũng nhiều lần xuống đường biểu tình gây áp lực đè nén. Về mặt pháp lý, bản Hiến pháp năm 1956 bị vô hiệu. Thay vào đó là một loạt hiến chương có đặc thù trong thời điểm tạm thời như [ 16 ] :

  1. Hiến chương 4 tháng 11 năm 1963.
  2. Hiến chương 7 tháng 2 năm 1964.
  3. Hiến chương 16 tháng 8 năm 1964 (thường gọi là Hiến chương Vũng Tàu).
  4. Hiến chương 20 tháng 10 năm 1964.

Về mặt quân sự, Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh tiếp tục chiến đấu chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Quy mô và mức độ ác liệt của chiến tranh ngày càng tăng. Trong phúc trình gửi Tổng thống Johnson ngày 16 tháng 3 năm 1964, McNamara đưa ra một bức tranh bi thảm, hậu quả của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm: “Trong số đất đai của 22 tỉnh (trong 44 tỉnh), Việt Cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn. Tại Phước Tuy, Việt Cộng kiểm soát 80%; Bình Dương 90%; Hậu Nghĩa 90%; Long An 90%; Định Tường 90%; Kiến Hoà 90%; An Xuyên (Cà Mau) 85%. Quận Mõ Cày và các xã Định Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp, “đỏ 100%”; trên 900 xã như trong trường hợp ba xã này…[17]“. Sau đảo chính 1963, trong một thời gian ngắn, đường mòn Hồ Chí Minh trở thành một “xa lộ thênh thang”, lượng hàng vận chuyển vào miền Nam tăng vọt. Trước đây, đoàn vận tải ô tô chỉ vào Khe Hó đổ hàng rồi từ đây dùng voi hay sức người chuyển vào Palin Thừa Thiên. Đầu năm 1964, các đoàn ô tô đã có thể đi tới điểm trạm ngã ba biên giới Kontum, số lượng vận tải tăng 40 lần so với năm trước, tỉ trọng vận tải cơ giới là 51%. Trước những thất bại này, Tổng thống Mỹ quyết định huy động quân viễn chinh trực tiếp tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Báo Quân đội Nhân dân nhận định “Đầu năm 1965, tình hình cách mạng miền Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy ngày càng bị khủng hoảng và thất bại nghiêm trọng. Đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách cố tạo ra một “sức mạnh” để cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời mở rộng hoạt động ném bom đánh phá miền Bắc.“[18].

Ngày 8/3/1965, Mỹ chính thức đổ quân viễn chinh lên Đà Nẵng. Phía Mỹ đã không thông báo cho Việt Nam Cộng hòa về thời gian và địa điểm đổ quân, mặc dù bản tin của Bộ Quốc phòng Mỹ 2 ngày trước tuyên bố rằng Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam là theo yêu cầu của chính phủ Sài Gòn. Sáng 8/3, một sĩ quan Mỹ đến gặp Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa là Phan Huy Quát, yêu cầu soạn thảo một thông cáo chung bằng hai thứ tiếng Anh-Việt để thông báo rộng rãi, lúc đó ông Quát mới biết quân Mỹ đã đổ bộ vào Việt Nam. Theo báo Đà Nẵng điều này cho thấy Mỹ rất coi thường và không tin tưởng chế độ Việt Nam Cộng hòa[19]. Khi biết tin thì quân Mỹ đã đổ bộ rồi, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa phải hợp thức hóa việc này bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ Thủ tướng là Bùi Diễm cùng với một viên chức Mỹ là Melvin Manfull soạn ngay thông cáo chào mừng quân Mỹ, với chỉ đạo: “Viết càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi”[20]. Trong những tháng sau đó, Mỹ đổ bộ hàng chục vạn quân, lính Mỹ hiện diện ở khắp miền Nam.

Đệ Nhị Cộng hòa 1967 – 1975

Để chấm hết thực trạng rối ren về chính trị, tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ quản lý công bố mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 3 tháng 9. Theo đó 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần và đến 1 tháng 4 năm 1967 thì ra tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam. Hiến pháp này là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30 tháng 4 năm 1975 [ 21 ] .Cuộc Tổng tuyển cử Tổng thống và Quốc hội diễn ra ngày 3 tháng 9 năm 1967 với 11 liên danh tranh cử trong đó có những ứng viên là chính trị gia kỳ cựu như Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương. Trong số hơn sáu triệu cử tri thì năm triệu người đi bầu, tức tỷ suất 80 %. Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 35 % số phiếu. Về nhì là luật sư Trương Đình Dzu với 17 % [ 22 ] .Tháng 6 năm 1969, trong vùng trấn áp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã diễn ra Đại hội đại biểu quốc dân và xây dựng ra nhà nước Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, do Huỳnh Tấn Phát làm quản trị và Hội đồng Cố vấn do Nguyễn Hữu Thọ làm quản trị .Năm 1971 là cuộc Tổng tuyển cử thứ nhì của nền Đệ Nhị Cộng hòa. Kỳ này Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách thuận tiện vì không có đối thủ cạnh tranh nào khác ra tranh cử. Khi vấn đề này xảy ra, nhiều người cho là do điều luật mới trải qua ngày 3 tháng 6 năm 1971 nhằm mục đích hạn chế năng lực tham gia của ứng viên trái chiều. Theo đó thì ứng viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của Dân biểu hay Nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của những thành viên trong Hội đồng tỉnh [ 23 ]. Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì không thỏa mãn nhu cầu được lao lý trên đã phải rút tên, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu là ứng viên duy nhất trong cuộc bầu cử .Vào năm 1973, sau Hiệp định Paris ( được luận bàn giữa bốn bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ), quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa nỗ lực trì hoãn việc ký kết hiệp định, nhưng phía Mỹ đã có quyết định hành động dứt khoát về việc này và gây áp lực đè nén cho chính phủ nước nhà Việt Nam Cộng hòa. Cuối cùng, Việt Nam Cộng hòa phải gật đầu ký kết hiệp định .

Suy vong

Bị mất viện trợ về tài lực và quân sự từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa không thể tự đứng vững được. Theo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu thì Việt Nam Cộng hòa giống như “một lâu đài xây trên cát, trông bề thế bên ngoài nhưng chỉ cần một con sóng nhỏ là tan vỡ”, mầm mống của sụp đổ gồm những lý do sau[24]:

Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đang cố bám vào càng một chiếc trực thăng UH-1 để di tán

  • Không có lãnh đạo đủ khả năng: Người được Mỹ đưa lên cầm quyền năm 1967 (Nguyễn Văn Thiệu) chỉ là một bù nhìn, giống như khởi đầu binh nghiệp làm thông ngôn Pháp của ông ta. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không tự đưa ra được quyết sách gì, chính sách từ lớn xuống bé đều do Tòa Đại sứ Mỹ, các tướng lĩnh MACV (Trung tâm Chỉ huy Tác chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam), sau này là USAID (Cơ quan Quản lý Viện trợ Hoa Kỳ) soạn thảo, đôn đốc thực hiện. Đại sứ Ellsworth Bunker và rồi Graham Martin có quyền lực không khác gì những “Toàn quyền Đông Dương” của Pháp trước kia – dù Việt Nam Cộng hòa không ngừng tự xưng là “Đồng minh” của Mỹ.
  • Không có sự ủng hộ của người dân: Mặc dù cơ quan tuyên truyền của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa luôn kêu gọi tinh thần chống Cộng với dân chúng miền Nam, nhưng thực ra họ chỉ có thể kiểm soát được khoảng 20-30% dân số miền Nam. Phần còn lại sống trong những vùng quân Giải phóng miền Nam kiểm soát một phần hoặc toàn bộ. Ngay trong số 20-30% dân chúng trong vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, nhiều người cũng không ủng hộ chế độ này và chia làm nhiều phe phái chống lại nhau vì những lý do như tôn giáo (Thiên Chúa giáo – Phật giáo), sắc tộc (người Việt – người Hoa), vùng miền (người thành thị – người nhập cư)…
  • Nền kinh tế phụ thuộc vào viện trợ Mỹ, khi Mỹ giảm viện trợ thì lập tức lâm vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1974 khiến đời sống người dân rất khó khăn, lương bổng cho binh sĩ bị cắt giảm, làm suy sụp ý chí chiến đấu của đa số binh sĩ.
  • Quân đội Việt Nam Cộng hòa thiếu chỉ huy có kinh nghiệm: qua màng lọc của hệ thống phe đảng và tham nhũng, những cấp chỉ huy có tiềm năng nhất nhưng không có thế lực chính trị đỡ đầu thì thường chết trận hay bị loại ngũ. Khi tác chiến thì quen dựa vào hỏa lực mạnh của Quân đội Hoa Kỳ, nên khi không còn hỏa lực Mỹ nữa thì bị lâm vào lúng túng. Bản thân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên chức đều là do đảo chính chứ không phải vì thành tích mặt trận. Có được ghế Tổng thống rồi, ông Thiệu lại tập trung hết quyền bính trong tay, biến Bộ Tổng Tham mưu thành một cơ cấu thư ký, không được tự ra quyết sách (vì ông Thiệu sợ rằng đến lượt chính mình sẽ bị người khác đảo chính lật đổ). Hiệp định Paris 1973 khiến binh sĩ hoang mang rằng “Mỹ đã bỏ rơi chăng? Nếu Mỹ còn không đánh lại thì sao mà tự đánh được?”, thế là tinh thần chiến đấu càng sụt giảm. Có đơn vị tự ý bỏ chạy khi vừa bị một viên pháo nã vu vơ vào đồn, đơn vị khác thì vừa nghe tiếng máy cày trong đêm đã thấy hoảng sợ, vội báo cáo xe tăng địch xuất hiện.

Trong bản ghi âm được giải mật sau này về cuộc trao đổi giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và ngoại trưởng Henry Kissinger vào cuối năm 1972, Nixon nói rõ việc ông chuẩn bị sẵn sàng bỏ mặc ” đứa con ” Việt Nam Cộng hòa để nước Mỹ hoàn toàn có thể thoát khỏi đại chiến ở Việt Nam [ 25 ]

Henry Kissinger: Tôi nghĩ Thiệu nói đúng đấy. Hiệp định đó (Hiệp định Paris) sẽ đẩy Việt Nam Cộng hòa vào thế nguy hiểm
Richard Nixon: Nó (Việt Nam Cộng hòa) phải tự chống đỡ thôi… Nếu nó chết thì cứ để cho nó chết. Nó lớn rồi, chúng ta không thể cứ cho nó bú mớm mãi được

Việt Nam Cộng hòa duy trì chủ yếu nhờ vào khoản viện trợ kinh tế và quân sự rất lớn của Mỹ, nhưng do nạn tham nhũng nên viện trợ bị sử dụng rất phung phí và kém hiệu quả. Quy mô tham nhũng bên trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa là rất lớn: cả nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967, súng cũng được tuồn ra bán với giá 25-30 đôla một khẩu, ngay cả xe bọc thép hoặc máy bay lên thẳng cũng có thể tuồn ra được. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ nêu trường hợp tướng Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ viện trợ và sớm bán hết sạch ra chợ đen, tài liệu mật từ Tòa Đại sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng[26]. Nhà báo người Mỹ William J. Lederer, trong chuyến điều tra năm 1968, nhận xét: kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam chính là nạn tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa. Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan chức Việt Nam Cộng hòa tham ô rồi bán ra chợ đen. Ông đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện đại. William J. Lederer nhận xét: “Tôi đã thấy trước Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào – không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình” [27]. Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Văn Thiệu cũng không có một chính sách kinh tế phù hợp để xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia mà ngày càng phụ thuộc vào viện trợ Mỹ[28] nên khi Mỹ cắt viện trợ thì nền kinh tế gặp khó khăn; tinh thần công chức, quân nhân và dân chúng xuống thấp rồi chính quyền sụp đổ.

Năm 1975, sau khi thất thủ Ban Mê Thuột ( nay gọi là Buôn Ma Thuột ), trước sự tiến công mãnh liệt của Quân Giải phóng, cộng thêm những sai lầm đáng tiếc kế hoạch, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã nhanh gọn tan rã, mất quyền trấn áp chủ quyền lãnh thổ. Nhiều tướng lãnh hạng sang Việt Nam Cộng hòa đã tự ý rời bỏ hàng ngũ. Tổng thống Dương Văn Minh, người được đề cử chức vụ này vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, đã ra lệnh đầu hàng vô điều kiện kèm theo trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 .

Sụp đổ

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống sau cuối của Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh công bố đầu hàng khi Quân Giải phóng miền Nam tiến vào Hồ Chí Minh .

Sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (gọi tắt là Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) ra tuyên bố: “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam Việt Nam”. Thông qua tuyên bố này và việc tiếp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã khẳng định Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức thực hiện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ miền Nam Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế, sau năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã kế thừa lãnh thổ, các cơ quan đại diện ở nước ngoài, tư cách thành viên tại các tổ chức quốc tế (WHO, ILO, UNESCO, ICAO, IAEA, IMF, Ngân hàng Thế giới,…). Tất cả những kế thừa này của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đều được thực hiện theo đúng thông lệ quốc tế và Công ước về kế thừa quốc gia đối với Điều ước quốc tế năm 1978[29].

Khí hậu

Dữ liệu khí hậu của Việt Nam cộng hòa

Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Năm

Trung bình cao °C (°F)

28.7

30.0

33.0

32.0

32.0

32.5

31.8

31.5

31.0

31.0

31.0

29.8

31,19

Trung bình ngày, °C (°F)

23.3

26.0

27.0

27.7

27.2

27.0

27.0

26.3

25.8

25.8

25.8

24.3

26,10

Trung bình thấp, °C (°F)

18.0

22.5

24.4

25.0

25.0

24.6

24.4

24.3

21.0

21.0

21.0

20.0

22,60

Giáng thủy mm (inch)

30

(1.18)

15

(0.59)

20

(0.79)

75

(2.95)

150

(5.91)

200

(7.87)

238

(9.37)

258

(10.16)

265

(10.43)

258

(10.16)

140

(5.51)

60

(2.36)

1.709

(67,28)

Số ngày giáng thủy TB

2

1

1

5

10

13

15

16

17

15

12

5

112

[cần dẫn nguồn]

Chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa

Theo Hiến pháp 1956, quy mô tổ chức triển khai nhà nước của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa như sau :

Lập pháp

Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội được tổ chức triển khai đơn viện. Số lượng Dân biểu do Luật định. Dân biểu được bầu cử theo lối đầu phiếu đại trà phổ thông, trực tiếp và kín, theo những thể thức và điều kiện kèm theo do luật đạo tuyển cử lao lý. Nhiệm kỳ Dân biểu là ba năm. Các Dân biểu hoàn toàn có thể được tái cử .Trong thực trạng khẩn cấp, cuộc chiến tranh, nội loạn, khủng hoảng kinh tế hoặc kinh tế tài chính, Quốc hội hoàn toàn có thể biểu quyết một luật đạo ủy cho Tổng thống, trong một thời hạn, với những hạn định rõ, quyền ký những sắc luật để triển khai chánh sách mà Quốc hội ấn định trong luật đạo chuyển nhượng ủy quyền. Các sắc luật phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ký. 30 ngày sau khi mãn thời hạn đã ấn định trong luật đạo chuyển nhượng ủy quyền, nếu Quốc hội không bác bỏ, những sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những luật đạo. [ Điều 42 ]Quyền hạn :

  • Biểu quyết các đạo luật, chấp thuận các điều ước và các hiệp định quốc tế.
  • Chỉ định một Ủy ban kiểm soát để phụ trách việc phúc trình về vấn đề kiểm soát tánh cách hợp thức cuộc bầu cử các Dân biểu.
  • Chỉ định các Ủy ban.
  • Ấn định nội quy, Tổ chức nội bộ Quốc hội và Văn phòng; Thủ tục Quốc hội và quyền hạn Văn phòng; Kỷ luật trong Quốc hội và các sự chế tài về kỷ luật; Thành phần và quyền hạn các Ủy ban.

Mỗi năm Quốc hội họp 2 lần, tổng thời hạn 2 lần họp không quá 3 tháng. Lần 1 khởi đầu từ ngày thứ 2 tiên phong trong tháng 4 dương lịch. Lần 2 khởi đầu ngày thứ 2 tiên phong trong tháng 10 dương lịch. Ngoài ra hoàn toàn có thể họp không bình thường .

Hành pháp

Tổng thống nắm quyền hành pháp, do Nhân dân trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm, có thể được tái nhiệm thêm 2 nhiệm kỳ. Mặc dù trong Hiến pháp 1956 có quy định “Chủ quyền thuộc về toàn dân” nhưng Đoạn 3, Điều 3 thì lại xác định “Tổng thống lãnh đạo quốc dân

Tổng thống có những quyền :

  • Ký kết, và sau khi được Quốc hội chấp thuận, phê chuẩn các điều ước và hiệp định quốc tế.
  • Bổ nhiệm các sứ thần, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao, thay mặt Quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc.
  • Với sự thỏa thuận của một nửa tổng số Dân biểu Quốc hội, Tổng thống tuyên chiến hoặc phê chuẩn hòa ước.
  • Bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự. Thành lập Nội các.
  • Là tư lệnh tối cao của các lực lượng quân sự.
  • Ban các loại huy chương.
  • Có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt và huyền án.
  • Có thể gia hạn nhiệm kỳ dân biểu.
  • Có thể dự các phiên họp Quốc hội và tuyên bố trước Quốc hội.
  • Mỗi năm vào đầu khóa họp thường lệ thứ nhì và mỗi khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chính phủ.
  • Với sự thỏa thuận của Quốc hội, Tổng thống có thể tổ chức trưng cầu dân ý.
  • Tổng thống có thể ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau trong một số trường hợp nhất định.
  • ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm trong một hay nhiều vùng; các sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp dụng một hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đó.

Tư pháp

  • Tòa án

Ngành Tư pháp được tổ chức triển khai theo nguyên tắc bình đẳng của mọi người trước pháp lý và nguyên tắc độc lập của Thẩm phán xử án. [ Điều 70 ] Thẩm phán xử án quyết định hành động theo lương tâm mình, trong sự tôn trọng pháp luật và quyền hạn Quốc gia .Hệ thống Tòa án nằm dưới sự trấn áp của Bộ Tư Pháp .

  • Đặc biệt Pháp viện

Đặc biệt Pháp viện là một TANDTC đặc biệt quan trọng có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án và quản trị Viện Bảo hiến trong trường hợp bị can phạm tội phản quốc và những trọng tội .

Đặc biệt Pháp viện gồm có: Chánh án Tòa Phá án, Chánh án; Mười lăm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ, Hội thẩm. Khi Chánh án Tòa Phá án là bị can, Chủ tịch Viện Bảo hiến sẽ ngồi ghế Chánh án.

Ban Điều tra của Đặc biệt Pháp viện gồm năm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ. Đặc biệt Pháp viện họp để nghe Ban Điều tra và đương sự trình diễn và phán quyết theo đa phần ba phần tư tổng số nhân viên cấp dưới .

  • Viện bảo Hiến

Viện Bảo hiến đưa ra những phán quyết về tánh cách hợp hiến của những luật đạo, sắc luật và quy tắc hành chánh .Viện Bảo hiến, về mỗi nhiệm kỳ Quốc hội, gồm có : Một quản trị do Tổng thống cử ra với sự chấp thuận đồng ý của Quốc hội, kèm theo 4 Thẩm phán hạng sang hay luật gia do Tổng thống cử ; kèm theo 4 Dân biểu do Quốc hội cử .

Hành chính địa phương

Toàn bộ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa được chia thành những Tỉnh. Thành phố Hà Nội Thủ Đô được gọi là Đô thành

  • Đô thành là Sài Gòn
  • Cấp tỉnh: đứng đầu là tỉnh trưởng. Vào thời Đệ Nhị Cộng hòa thì tỉnh trưởng luôn là quân nhân. Phó tỉnh trưởng mới là dân sự.
  • Cấp quận: đứng đầu là quận trưởng. Cấp thị xã: đứng đầu là đô trưởng, thị trưởng
  • Cấp xã: đứng đầu là xã trưởng

Chính quyền Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa

Hiến pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai chính quyền sở tại Việt Nam Cộng hòa rất hoàn hảo, theo quy mô của Nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa đã bộc lộ khá không thiếu ý thức của chủ nghĩa hợp hiến .

Lập pháp

Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội với Hạ nghị viện ( 159 thành viên được gọi là dân biểu với nhiệm kỳ 4 năm ) và Thượng nghị viện ( 60 thành viên được gọi là nghị sĩ, nhiệm kỳ 6 năm ). Thượng viện được bầu theo liên danh. Một liên danh hoàn toàn có thể có ứng viên từ nhiều vùng khác nhau nhưng chung một liên danh. Hạ viện thì chọn theo số phiếu từng địa phương địa thế căn cứ trên dân số. Tính đến năm 1974 thì mỗi dân biểu đại diện thay mặt khoảng chừng 50.000 cử tri. [ 30 ] Cử tri đầu phiếu trực tiếp để chọn đại biểu ở Hạ viện và Thượng viện. Nhiệm kỳ ở đầu cuối của Hạ viện khởi đầu ngày 29 Tháng Tám năm 1971, đáng ra sẽ kết thúc vào Tháng Tám năm 1975. Thượng viện thì phân nửa mở màn nhiệm kỳ Tháng Tám năm 1970, sẽ kết thúc năm 1976. Phân nửa kia mở màn Tháng Tám năm 1973, đáng ra sẽ kết thúc năm 1979. [ 31 ]Trong 159 ghế Hạ viện thì có 6 ghế dành riêng cho người Việt gốc Miên, 6 ghế cho người Thượng, 2 ghế cho người thiểu số di cư từ thượng du miền Bắc và 2 ghế cho người Chàm. [ 30 ]Quốc hội có những quyền hạn sau :

  • Biểu quyết các đạo luật
  • Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế
  • Quyết định việc tuyên chiến và nghị hòa, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh
  • Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chính sách quốc gia
  • Hợp thức hóa sự đắc cử của dân biểu hoặc nghị sĩ quốc hội
  • Quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chính phủ với đa số 2/3 tổng số dân biểu và nghị sĩ. Nếu Tổng thống không có lý do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp Tổng thống khước từ, Quốc hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số 3/4 tổng số dân biểu và nghị sĩ.

Ở tỉnh, thị xã có Hội đồng tỉnh, thị xã, Đô thành Hồ Chí Minh có Hội đồng Đô thành, đều do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 3 năm ; thành viên Hội đồng gọi là nghị viên. Các Hội đồng này có thẩm quyền quyết định hành động ngân sách và những yếu tố dân số của địa phương .

Hành pháp

Phủ Tổng thống

Tổng thống là người nắm quyền hành pháp, do bầu cử lên với nhiệm kỳ 4 năm và có những quyền hạn sau :

  • Ban hành các đạo luật
  • Hoạch định chính sách quốc gia
  • Bổ nhiệm Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, cải tổ một phần hay toàn bộ Chính phủ (hoặc tự ý, hoặc sau khi có sự khuyến cáo của Quốc hội)
  • Bổ nhiệm các đại sứ, các tỉnh trưởng, thị trưởng, đô trưởng
  • Chủ tọa Hội đồng Tổng trưởng
  • Tổng tư lệnh tối cao của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
  • Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia
  • Ký kết và ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế
  • Tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm bằng sắc luật.

Sau vụ tu chính hiến pháp Tháng Giêng năm 1974 thì nhiệm kỳ tổng thống đổi từ 4 thành 5 năm. Ngoài ra tổng thống và phó tổng thống được phép tái đắc cử 2 lần thay vì 1 lần. [ 30 ]Phó Tổng thống có những trách nhiệm sau :

  • Chủ tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục
  • Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội
  • Chủ tịch Hội đồng các Sắc tộc.

Phó Tổng thống không được kiêm nhiệm một chức vụ nào trong những cơ quan nhà nước khác .Theo triết lý thì Tổng thống không được quyền can thiệp vào nhánh lập pháp, nhưng trong trong thực tiễn thì khác. Ví dụ như năm 1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã vượt quyền hiến pháp, đơn cử là điều luật lao lý sự bất khả xâm phạm của dân biểu, để bắt giữ và mở TANDTC quân sự chiến lược phán quyết dân biểu Trần Ngọc Châu 10 năm khổ sai, sau khi vị dân biểu này ý kiến đề nghị xây dựng một đoàn gồm những nhà lập pháp Việt Nam Cộng hòa để đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. [ 32 ]

Nội Các Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa

Thủ tướng tinh chỉnh và điều khiển nhà nước và những cơ cấu tổ chức hành chính vương quốc. Thủ tướng chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về sự thi hành chủ trương vương quốc trước Tổng thống. Chức vụ này do Tổng thống chỉ định .Chính quyền Trung ương được tổ chức triển khai thành 19 Bộ ; đứng đầu mỗi bộ là tổng trưởng :

  1. Bộ Ngoại giao
  2. Bộ Quốc phòng
  3. Bộ Nội vụ
  4. Bộ Thông tin
  5. Bộ Chiêu hồi
  6. Bộ Tài chính
  7. Bộ Kinh tế
  8. Bộ Tư pháp
  9. Bộ Phát triển Nông thôn
  10. Bộ Cải cách Điền địa và Pháp triển Nông–Ngư nghiệp
  11. Bộ Công chánh
  12. Bộ Giao thông và Bưu điện
  13. Bộ Giáo dục
  14. Bộ Y tế
  15. Bộ Xã hội
  16. Bộ Lao động
  17. Bộ Cựu chiến binh
  18. Bộ Phát triển Sắc tộc
  19. Bộ Đặc trách liên lạc Quốc hội

Ngoài ra còn có 3 Quốc vụ khanh :

  1. Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa
  2. Quốc vụ khanh đặc trách tái thiết và phát triển
  3. Văn phòng Quốc vụ khanh

Đứng đầu những Bộ là những Tổng trưởng hoặc Bộ trưởng. Các Tổng trưởng và Bộ trưởng là những thành viên của nhà nước, thành viên của Hội đồng Nội các ( Hội đồng Tổng trưởng ). Trong mỗi bộ, dưới tổng trưởng theo thứ tự là đổng lý văn phòng, chánh văn phòng, công cán ủy viên, tham chánh văn phòng. [ 33 ]Các Tổng trưởng, Bộ trưởng do Thủ tướng đề cử lên Tổng thống, Tổng thống chỉ định .Thủ tướng và những thành viên nhà nước hoàn toàn có thể tham gia những phiên họp của Quốc hội hoặc của những Uỷ ban để trình diễn và xử lý về những yếu tố tương quan đến chủ trương vương quốc và sự thi hành những chủ trương vương quốc do Tổng thống hoạch định .

Hành chính địa phương

Toàn bộ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa được chia thành những Tỉnh. Thủ đô Quốc gia được gọi là Đô thành

  • Đô thành Sài Gòn, thị xã: đứng đầu là đô trưởng, thị trưởng
  • Cấp tỉnh: đứng đầu là tỉnh trưởng. Vào thời Đệ Nhị Cộng hòa thì tỉnh trưởng là quân nhân. Phó tỉnh trưởng mới là dân sự.
  • Cấp quận: đứng đầu là quận trưởng
  • Cấp xã: đứng đầu là xã trưởng

Tư pháp

Luật pháp

Luật pháp Việt Nam Cộng hòa được kiến thiết xây dựng địa thế căn cứ theo Bộ Hoàng Việt Hộ luật ( 1936 – 39 ) do triều đình Nguyễn ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ Dân luật Giản yếu ( 1883 ) vận dụng ở Nam Kỳ, sau châm chước thêm một số ít pháp luật của Bộ Dân luật Bắc Kỳ ( 1931 ). [ 34 ] Hình luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật ( 1933 ), Tố tụng tu chính của Trung Kỳ ( 1935 ) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải ( 1912 ). Di sản pháp luật từ thời Pháp thuộc dần được thống nhất thành một bộ luật cho toàn nước năm 1972 với tên Bộ Hình luật Việt Nam [ 35 ] phát hành ngày 20 Tháng Chạp năm 1972. Theo đó có năm hạng :

  • Bộ luật Hình sự tố tụng; Bộ luật này đã được Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành qua Sắc luật số 027/TT-SLU[36]
  • Bộ Dân luật; Sắc luật số 028/TT/SLU[37]
  • Bộ Quân luật và các văn kiện thi hành của Bộ Quốc phòng
  • Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng; Sắc luật số 030/TT/SLU
  • Bộ luật Thương mại 1972. Phần này gồm 5 quyển và 1051 điều quy định các điều khoản tổng quát về nhà buôn, nhiệm vụ của các nhà buôn và các cửa hàng thương mại; thương hội; hành vi thương mại; thương mại hàng hải; khánh tận, phá sản và thanh toán tư pháp.

Tối cao Pháp Viện Việt Nam Cộng Hòa

Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa gồm 9 thẩm phán, sau tăng thành 15 thẩm phán do Quốc hội tuyển chọn và Tổng thống chỉ định. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tối cao Pháp viện là 6 năm. Theo Hiến pháp 1967, Tối cao Pháp viện có những quyền hạn sau :

  • Giải thích Hiến pháp, phán quyết về tính hợp hiến hay không hợp hiến của các Đạo luật, Sắc luật, Sắc lệnh, Nghị định, Quyết định hành chính
  • Phán quyết về việc giải tán một chính đảng có chủ trương và hành động chống lại chính thể cộng hòa.

Những quyết định hành động của Tối cao Pháp viện công bố một luật đạo không hợp hiến hoặc giải tán một chính đảng phải được 3/4 tổng số thẩm phán ưng ý .Ở cấp Trung ương, ngoài Tối cao Pháp viện còn có Đặc biệt Pháp viện và Giám sát viện .Đặc biệt Pháp viện gồm có quản trị Tối cao Pháp viện và 10 dân biểu, nghị sĩ, có thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ trưởng, thẩm phán Tối cao Pháp viện trong trường hợp can tội phản quốc và những trọng tội khác .Giám sát viện ( tiếng Anh : Inspectorate General ) gồm từ 9-18 giám sát viện, 1/3 do Quốc hội, 1/3 do Tổng thống và 1/3 do Tối cao Pháp viện chỉ định .Giám sát viện có thẩm quyền :

  • Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân can tội tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế
  • Kiểm kê tài sản của nhân viên các cơ quan công quyền, kể cả Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, dân biểu, Nghị sĩ và Chủ tịch Tối cao Pháp viện
  • Có quyền đề nghị các biện pháp chế tài và kỷ luật hoặc yêu cầu truy tố trước toà án có thẩm quyền những đương sự phạm lỗi
  • Thẩm tra kế toán các cơ quan công quyền và hợp doanh.

Tổ chức Tòa án

Ở địa phương, có những toà án thường ( gồm những toà Thượng thẩm, toà Đại hình, toà Sơ thẩm, tòa Hòa giải, toà Vi cảnh ) và những toà án đặc biệt quan trọng ( gồm những toà Hành chính, toà Lao động, toà án Điền địa, toà án cho Thiếu nhi ( xây dựng năm 1958 ), toà án Cấp dưỡng, toà án Sắc tộc, toà án Quân sự đặc biệt quan trọng – trong đó có những toà án Quân sự tại mặt trận ) .Cấp thấp nhất là Tòa Vi cảnh, ở nông thôn có khi do quận trưởng chủ tọa. Cao hơn thì có mạng lưới hệ thống Tòa Sơ thẩm có một chánh thẩm và ba phụ thẩm. Tòa Thượng thẩm thời Đệ Nhất Cộng hòa có hai sở, một ở Hồ Chí Minh, một ở Huế. Mỗi phiên tòa xét xử này có ba thẩm án ngồi xử án. [ 38 ]

Phân cấp hành chính

Các đơn vị chức năng hành chính cấp tỉnh

Bản đồ hành chính Việt Nam Cộng Hòa năm 1972 ( theo CIAĐầu năm 1956, xây dựng thêm những tỉnh Tam Cần ( 9 tháng 2 năm 1956 ), Mộc Hóa ( 17 tháng 2 năm 1956 ), Phong Thạnh ( 17 tháng 2 năm 1956 ), Cà Mau ( 9 tháng 3 năm 1956 ) .Theo sắc lệnh 143 – NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của chính quyền sở tại Việt Nam Cộng hòa thì Nam phần ( tức Nam Bộ ) gồm 22 tỉnh và Đô thành TP HCM. Như vậy, hàng loạt chủ quyền lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh : Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Tỉnh Quảng Ngãi, Tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Đồng Nai Thượng, Phước Long ( tên cũ : Bà Rá ), Bình Long ( tên cũ : Hớn Quản ), Long Khánh ( tên cũ : Xuân Lộc ), Biên Hòa, Bình Tuy, Phước Tuy ( tên cũ : Bà Rịa-Vũng Tàu ), Tỉnh Bình Dương ( tên cũ : Thủ Dầu Một ), Tây Ninh, Gia Định, Long An ( gộp Chợ Lớn và Tân An ), Kiến Tường ( tên cũ : Mộc Hóa ), Kiến Phong ( tên cũ : Phong Thạnh ), Định Tường ( gộp Mỹ Tho và Gò Công ), Kiến Hòa ( tên cũ : Bến Tre ), Vĩnh Long, Vĩnh Bình ( tên cũ : Trà Vinh ), An Giang ( gộp Long Xuyên và Châu Đốc ), Phong Dinh ( tên cũ : Cần Thơ ), Kiên Giang ( gộp Rạch Giá và Hà Tiên ), Ba Xuyên ( gộp Bạc Liêu và Sóc Trăng ), An Xuyên ( tên cũ : Cà Mau ), Côn Sơn và Đô thành TP HCM .Ngày 19 tháng 5 năm 1958, lập 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức từ tỉnh Đồng Nai Thượng .Ngày 23 tháng 1 năm 1959, lập 2 tỉnh Quảng Đức và Phước Thành .Ngày 21 tháng 1 năm 1961, lập tỉnh Chương Thiện .Năm 1962, lập 2 tỉnh Quảng Tín ( 31 tháng 7 năm 1962 ) và Phú Bổn ( 1 tháng 9 năm 1962 ) .Năm 1963, lập 2 tỉnh Hậu Nghĩa ( 15 tháng 10 năm 1963 ) và Gò Công ( 20 tháng 12 năm 1963 ) .Ngày 8 tháng 9 năm 1964, lập 2 tỉnh Châu Đốc và Bạc Liêu .

Năm 1965, bỏ 2 tỉnh Côn Sơn (21 tháng 4 năm 1965) và Phước Thành (6 tháng 7 năm 1965).

Ngày 24 tháng 9 năm 1966, lập tỉnh Sa Đéc .Từ đó cho đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có 44 tỉnh và Đô thành Hồ Chí Minh :Quảng Trị | Thừa Thiên | Quảng Nam | Quảng Tín | Tỉnh Quảng Ngãi | Kon Tum | Tỉnh Bình Định | Pleiku | Darlac | Phú Yên | Phú Bổn | Khánh Hòa | Ninh Thuận | Tuyên Đức | Quảng Đức | Bình Thuận | Lâm Đồng | Phước Long | Bình Long | Bình Tuy | Long Khánh | Tỉnh Bình Dương | Tây Ninh | Phước Tuy | Biên Hòa | Hậu Nghĩa | Gia Định | Long An | Kiến Tường | Gò Công | Định Tường | Kiến Phong | Châu Đốc | Kiến Hòa | Vĩnh Long | Sa Đéc | An Giang | Kiên Giang | Vĩnh Bình | Phong Dinh | Ba Xuyên | Chương Thiện | Bạc Liêu | An Xuyên .Đơn vị đông dân nhất là Đô thành TP HCM ; ít dân nhất là tỉnh Quảng Đức. [ 39 ]Đứng đầu tỉnh là Tỉnh trưởng do tổng thống chỉ định và báo cáo giải trình lên thủ tướng và bộ trưởng liên nghành Bộ Nội vụ. Trách nhiệm của tỉnh trưởng gồm soạn ngân sách, điều hành quản lý lực lượng Nhân dân Tự vệ, giữ gìn bảo mật an ninh trật tự và trấn áp việc hành chánh. [ 40 ]

Các đơn vị chức năng hành chính dưới cấp tỉnh

Năm 1966, 44 tỉnh của Việt Nam Cộng hòa được chia thành 241 Q., [ 41 ] sau tăng lên 247 Q.. [ 39 ] Quận trưởng do tỉnh trưởng đề cử và thủ tướng chỉ định .Dưới Q. là xã có Xã trưởng và thôn có Thôn trưởng. Toàn quốc có 2.589 xã. [ 42 ] Tính đến năm 1974 thì cơ quan chính phủ trấn áp 2.159 xã. [ 43 ] Ngoài Đô thành TP HCM ra còn có 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, TP. Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá. [ 44 ] Dưới xã là thôn ấp, tổng số có hơn 15.000 đơn vị chức năng. [ 45 ]Cấp tổng bị vô hiệu dần kể từ năm 1962 .Việc quản lý ở cấp xã trước kia tự trị thì năm 1956 thời Đệ Nhất Cộng hòa hội đồng xã phải do tỉnh trưởng chỉ định. [ 46 ] Sang thời Đệ Nhị Cộng hòa thì việc điều hành quản lý ở cấp xã trả lại cho địa phương. Hội đồng xã do dân cư 18 tuổi trở lên bầu ra. Những xã dưới 2 nghìn dân thì bầu ra hội đồng 6 người. Xã trên 10.000 dân thì được bầu 12 người. [ 47 ]

Các vùng giải pháp và quân khu

Diễn tập quân sự chiến lược năm 1963Về mặt quân sự chiến lược, năm 1961 xây dựng những vùng giải pháp, đến năm 1970 đổi tên là Quân khu. Lúc đầu có 3 vùng giải pháp được đánh số 1, 2, 3, đến năm 1964 lập thêm vùng giải pháp 4. Mỗi vùng giải pháp do 1 quân đoàn đảm nhiệm. Dưới vùng giải pháp là những khu giải pháp do 1 sư đoàn đảm nhiệm. Bộ tư lệnh quân đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh vùng giải pháp ( trừ quân đoàn 2 ), còn Bộ tư lệnh sư đoàn đồng thời là Bộ tư lệnh khu giải pháp. Các vùng giải pháp có địa giới như sau :

Ngày 1/7/1970, 4 vùng giải pháp chuyển thành 4 Quân khu, thì bỏ cấp khu giải pháp .

  • Quân khu I gồm 5 tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và đặc khu Đà Nẵng.
  • Quân khu II gồm 12 tỉnh và đặc khu Cam Ranh với diện tích 78.841 km vuông, chiếm gần phân nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa nhưng chỉ có gần 3 triệu dân sinh sống.
  • Quân khu III gồm 11 tỉnh[48] và đặc khu Vũng Tàu. Biệt khu Thủ đô (Sài Gòn – Gia Định) cũng trực thuộc vào quân khu.
  • Quân khu IV có 16 tỉnh.

Các tỉnh về mặt quân sự chiến lược là những tiểu khu, còn những Q. là những chi khu .

Quân sự

Bác sĩ người Mỹ trong chương trình y tế hội đồng MEDCAP và 1 binh sĩ người Việt Nam – Hình chụp tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Một lính Việt Nam Cộng hòa đang đu trên càng một chiếc trực thăng UH-1 để sơ tán khi thất trậnQuân lực Việt Nam Cộng Hòa là lực lượng quân đội của chính quyền sở tại Việt Nam Cộng hòa. Thành lập từ năm 1955 với nòng cốt là lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, đa phần là Bảo an đoàn, Bảo chính đoàn. Ngày truyền thống lịch sử ( còn gọi là ngày Quân lực ) là ngày 19 tháng 6 .Quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hùng hậu với sức cơ động cao và hoả lực mạnh, được sự tương hỗ tích cực của Mỹ và những liên minh, để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vốn được sự hậu thuẫn của chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn bị gọi là ” quân đội TP HCM ” hay ” ngụy quân ” theo cách gọi của chính quyền sở tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân Giải phóng miền Nam. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng là lực lượng chính trong cuộc thay máu chính quyền 1963 lật đổ chính sách Ngô Đình Diệm và tham chính trong chính quyền sở tại cho đến ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ .

Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội trang bị hiện đại, tốn kém, đòi hỏi kinh phí hoạt động gần 3 tỷ đôla Mỹ mỗi năm. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa không thể cáng đáng được kinh phí này, nên Việt Nam Cộng hòa đã gần như phải dựa hoàn toàn vào viện trợ của Mỹ để có thể chu cấp cho ngân sách quân sự. Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa lâm vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không còn đủ kinh phí hoạt động, tình trạng thiếu đạn dược, vũ khí, xăng dầu đã dẫn đến hỏa lực yếu và giảm tính cơ động.[49] Nhà báo Mỹ William J. Lederer, trong chuyến điều tra năm 1968, đã nhận thấy quân đội Việt Nam Cộng Hòa sử dụng viện trợ rất phung phí và kém hiệu quả do nạn tham nhũng. Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan chức, sĩ quan tham ô rồi bán ra chợ đen. William J. Lederer đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện đại. Chính phủ Hoa Kỳ biết rõ vấn nạn này, nhưng họ làm ngơ. William J. Lederer nhận xét: “Tôi thấy Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào – không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình”. Quy mô buôn lậu lên tới hàng tỷ USD, với sự tham gia của đủ thành phần: quan chức và doanh nhân Việt Nam Cộng hòa, thương nhân Mỹ và Đài Loan, binh lính Mỹ, Hàn Quốc, Philippines… Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng cũng tận dụng thị trường chợ đen, tại đây họ mua hàng hóa Mỹ để đánh lại chính quân Mỹ.[27]

Craig A. Lockard nhận xét rằng “trong sự khinh thường của những người Mỹ mà họ phục vụ, Việt Nam Cộng hòa chỉ là một thứ công cụ để hợp thức hóa việc phê chuẩn, nếu không phải là thường bị loại ra khỏi sự chỉ đạo của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa hiếm khi đưa ra chính sách lớn, họ thậm chí còn không được tham khảo ý kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ.”[50] Suốt nhiều năm phụ thuộc vào quân Mỹ đã khiến các chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa không còn đủ khả năng để tự chiến đấu. Ký giả Alan Dawson nhận xét: Đội quân này trang bị vũ khí tốt hơn bất kỳ nước châu Á nào khác, có nhiều máy bay chiến đấu, có nhiều đạn dược, xăng dầu, quân cụ, xe cộ và lương thực hơn hầu hết các quân đội trên thế giới. Nó chỉ thiếu mỗi một điều thôi. Một người Mỹ nói với một binh sĩ Sài Gòn rằng: Chúng tôi đã cho anh mọi thứ anh cần, trừ sự dũng cảm. Chỉ tại các anh không có thứ ấy.[51]

Với nhiều điểm yếu về chỉ huy và ý thức chiến đấu, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đánh tan vỡ nhanh gọn trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, lực lượng quân đội này đã tan rã trọn vẹn .

Ngoại giao

Tính đến năm 1975 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập ngoại giao với 91 vương quốc [ 52 ] trên quốc tế, Tòa Thánh Vatican và 3 vương quốc ở cấp lãnh sự. Lập trường ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa là không gật đầu bang giao với chính phủ nước nhà nào đã công nhận chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoặc nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. [ 53 ] Riêng năm 1974, tức sau khi ký kết Hiệp định Paris thì 12 vương quốc sau cuối thiết lập bang giao với Việt Nam Cộng hòa là : Ả Rập Saud ( Tháng Hai ), Chile ( Tháng Ba ), Uruguay và Costa Rica ( Tháng Năm ), Nicaragua ( Tháng Sáu ), Guatemala ( Tháng Tám ), Honduras, Grenada và Paraguay ( Tháng Chín ), Haiti và Ecuador ( Tháng 10 ). [ 54 ]Năm 1957, Việt Nam Cộng hòa đứng đơn gia nhập Liên hiệp quốc do Hoa Kỳ đề cử. Đại hội đồng ( General Assembly ) bỏ phiếu 40 thuận, 8 chống. Việc này chuyển lên Hội đồng Bảo an quyết định hành động. Liên Xô muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng gia nhập, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khước từ việc này với nguyên do quốc gia Việt Nam không gật đầu bị chia cắt 2 miền, nên chỉ hoàn toàn có thể có 1 cơ quan chính phủ đại diện thay mặt ở Liên Hiệp quốc. Vì vậy, đơn của Việt Nam Cộng hòa bị Liên Xô phủ quyết. [ 2 ] [ 3 ] Cho đến khi chấm hết sống sót ( năm 1975 ), Việt Nam Cộng hòa vẫn không được gia nhập Liên Hiệp quốc .

Các nước lân bang

Ngày 2/2/1956 Ngô Đình Diệm đã đóng cửa biên giới không cho hàng hóa nhập vào Campuchia vì nước này không công nhận cơ quan chính phủ Ngô Đình Diệm. Với Lào, vương quốc láng giềng, Việt Nam Cộng hòa đã quyết định hành động đoạn giao khi nhà nước của Hoàng thân Souvanna Phouma công nhận và thiết lập liên lạc ngoại giao với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1962. Ngày 27 Tháng 8, 1963 [ 55 ] thì Campuchia cắt đứt bang giao với Việt Nam Cộng hòa vì tình hình biên giới, nhất là yên cầu của Campuchia muốn tịch thu toàn đất Nam Kỳ vốn họ cho là đất cũ của người Miên. [ 56 ] Năm 1964 Việt Nam Cộng hòa đoạn giao với Indonesia, khi nước này công bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9 Tháng 5 năm 1966, Campuchia chính thức công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam [ 57 ] công khai minh bạch công kích Hồ Chí Minh. Như vậy, thất bại lớn nhất trong chủ trương đối ngoại giao của chính phủ nước nhà Ngô Đình Diệm ở Khu vực Đông Nam Á là không lôi kéo được Lào và Campuchia ủng hộ mình. [ 58 ] Tuy nhiên sang thời Đệ nhị Cộng hòa thì tái lập bang giao với Lào. Với Campuchia thì phải đợi sau khi Tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại năm 1968 và chính phủ nước nhà của vua Sihanouk bị Lon Nol lật đổ, lập nên nước Cộng hòa Khmer thì ngày 5 Tháng 5, 1970, Cộng hòa Khmer trục xuất phái đoàn nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, công nhận và tái lập bang giao với Việt Nam Cộng hòa. [ 59 ]

Các nước tham chiến

Trong khi đó chiến cuộc leo thang. Bắt đầu từ năm 1964, một số đồng minh của Việt Nam Cộng hòa ngoài viện trợ tài lực hoặc nhân lực còn trực tiếp tham chiến như Hoa Kỳ (1964), Nam Triều Tiên (03.1965), Úc (06/1965), New Zealand (07/.1965), Thái Lan (02/1966) và Philippines (10.1966). Nhóm này mang tên Quân lực Thế giới Tự do (tiếng Anh: The Free World Military Assistance Forces). Lực lượng quân sự của các đồng minh dần dần rút đi vào năm 1973 với Hòa đàm Paris đang diễn tiến và rồi kết thúc.[60]

Tổ chức quốc tế

Việt Nam Cộng hòa là thành viên trong 1 số ít tổ chức triển khai quốc tế như Ủy ban Kinh tế của Liên hiệp quốc về Á châu và Viễn Đông ECAFE ( 1954 ), [ 61 ] Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực FAO ( 1950 ) ; Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA ( 1957 ) ; Tổ chức Hàng không Dân sự Quốc tế ICAO ( 1954 ) ; Thương Hội Phát triển Quốc tế IDA ; Tổ chức Lao động Quốc tế ILO ( 1950 ) ; Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF ( 1956 ) [ 62 ] ; Liên hiệp Viễn thông Quốc tế ITU ( 1951 ) ; Tổ chức Giáo dục đào tạo, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc UNESCO ( 1951 ) ; Quỹ Thiếu nhi Liên hiệp quốc UNICEF, Liên hiệp Bưu chính Quốc tế UPU ( 1951 ) ; Tổ chức Y tế Quốc tế WHO ( 1950 ) ; Tổ chức Khí tượng Thế giới WMO ( 1955 ), [ 63 ] Ngân hàng Thế giới ( 1956 ), [ 64 ] và Ngân hàng Phát triển châu Á ( 1966 ). Đối với Tổ chức Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á ( SEATO ), Việt Nam Cộng hòa là quan sát viên. [ 65 ]

Kinh tế

Nền kinh tế tài chính Việt Nam Cộng hòa là nền kinh tế thị trường, chưa tăng trưởng và mở cửa. Mức độ tự do của nền kinh tế tài chính khá cao trong những năm 1963 đến 1973. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế tài chính vẫn được tiến hành dựa trên những kế hoạch kinh tế tài chính 5 năm hoặc kế hoạch bốn năm. Nền kinh tế tài chính tăng trưởng không thay đổi trong quy trình tiến độ 1955 – 1963 dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sau đó do tác động ảnh hưởng của cuộc chiến tranh leo thang đã trở nên mất không thay đổi với những đặc trưng như vận tốc tăng trưởng kinh tế tài chính không đều ( có nhiều năm bị âm ), tỷ suất lạm phát kinh tế cao, thâm hụt ngân sách nhà nước và thâm hụt thương mại. Chính quyền đã phải thực thi cải cách ruộng đất hai lần .

Mỹ đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam Cộng hòa thông qua viện trợ kinh tế cũng như hỗ trợ kỹ thuật. Trải qua 21 năm, khối lượng viện trợ kinh tế mà Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa là rất lớn, đạt hơn 10 tỷ USD (thời giá thập niên 1960). Đây là con số viện trợ kinh tế cao nhất của Hoa Kỳ so với bất cứ nước nào khác trên thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ví dụ, Ấn Độ trong 20 năm (1950 – 1970) được Hoa Kỳ viện trợ 9,3 tỷ USD (trong khi dân số Ấn Độ lớn hơn 20 lần); Philippines trong 22 năm được viện trợ gần 2 tỷ USD (1945 – 1967); Thái Lan nhận được gần 1,2 tỷ USD, Indonesia nhận được gần 1 tỷ USD. Ở châu Phi, tính suốt trong 25 năm (1946 – 1970) tổng số viện trợ Hoa Kỳ cho tất cả các nước chỉ là 4,9 tỷ USD. Tại miền Nam Việt Nam, “thu nhập quốc dân chưa bao giờ vượt quá 2 tỷ USD/năm, nhưng trong 5 năm cuối cùng (1971 – 1975), viện trợ Hoa Kỳ hàng năm đạt hơn 2 tỷ USD/năm, tức là lớn hơn tổng số của cải do miền Nam Việt Nam làm ra”[66]

Giới thương nhân Hoa kiều cũng nắm giữ vị thế gần như độc quyền những ngành trong nền kinh tế tài chính, đặc biệt quan trọng là sau năm 1963. Trước năm 1975, ở miền Nam, Hoa kiều trấn áp gần như hàng loạt những vị trí kinh tế tài chính quan trọng và đặc biệt quan trọng nắm chắc 3 nghành nghề dịch vụ quan trọng : sản xuất, phân phối và tín dụng thanh toán. Hoa kiều ở miền Nam gần như trọn vẹn trấn áp giá thành thị trường. Đến cuối năm 1974, người Hoa trấn áp hơn 80 % những cơ sở sản xuất của những ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện … và gần như đạt được độc quyền thương mại : 100 % bán sỉ, hơn 50 % kinh doanh nhỏ và 90 % xuất nhập khẩu [ 67 ]Nhìn chung, kinh tế tài chính Việt Nam Cộng hòa có quy mô nhỏ và bị hạn chế vì tình hình không ổn định, sự tàn phá của cuộc chiến tranh và chịu ràng buộc vào viện trợ ngoại bang. Trong quá trình 1955 – 1960, nền kinh tế tài chính tăng trưởng khá nhanh và đạt được 1 số ít thành tích về nông nghiệp, công nghiệp, nhưng tiến trình sau ( 1960 – 1975 ) thì liên tục bị sụt giảm. Lợi tức vương quốc mỗi đầu người năm 1967 là 21.013 đồng, tính theo hối suất Mỹ kim là 176,87 USD. [ 68 ] GDP trung bình đầu người năm cao nhất ( 1971 ) của Việt Nam Cộng hòa là 200 USD, tuy nhiên đến năm 1974 đã sụt xuống còn 54 USD do Mỹ cắt giảm viện trợ và tiền Việt Nam Cộng hòa mất giá khoảng chừng 400 % trong 2 năm [ 49 ] Theo tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, nền kinh tế tài chính có nhiều triển vọng ” nếu hội đủ điều kiện kèm theo thiết yếu để tiến tới chỗ thoát khỏi thực trạng lỗi thời “, nhưng điều kiện kèm theo cuộc chiến tranh khiến kinh tế tài chính liên tục bị đình trệ. [ 69 ]Một tiềm năng mới là dầu hỏa ngoài khơi. Từ năm 1968 Việt Nam Cộng hòa đã thực thi hợp tác với CCOP ( Coordinating Committee for Offshore Prospecting in Asia ) để hỗ trợ vốn và lôi cuốn kỹ thuật tìm dầu. [ 70 ] Đến năm 1973 cơ quan chính phủ cho đấu thầu 18 ô ( mỗi ô là 4800 km2 ) để những hãng quốc tế mở cuộc thăm dò. Hãng Shell nhận ba ô, Sumingdale nhận hai ô, Mobil Oil nhận hai ô, và Esso nhận một. [ 71 ] Đến Tháng Tám, 1974 thì tìm được mạch dầu [ 72 ] nhưng chiến sự ngày càng nặng khiến triển vọng khai thác mỏ dầu hỏa bị bỏ lỡ. [ 70 ]

Nhân khẩu

Theo Viện Quốc gia Thống kê của Việt Nam Cộng hòa thì tính đến ngày 30 tháng 6/1968, dân số toàn miền ( từ Quảng Trị trở xuống ) là 16.259.334 [ 68 ]. Tuy nhiên, trong trong thực tiễn thì Việt Nam Cộng hòa chỉ trấn áp được một phần số dân này, phần còn lại thuộc trấn áp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam .Nông thôn là nơi cư trú của 71 % dân số. Dân thành thị là 29 %. Gia tăng tự nhiên là 2 % – 2,2 % với lớp trẻ dưới 20 tuổi chiếm 57 %. Trung bình thì tỷ lệ là 95 người / cây số vuông nhưng vì phân phối không đều nên xét về mặt kinh tế tài chính thì duyên hải Trung phần là nơi nạn nhân mãn ở mức trầm trọng vì mỗi cây số vuông ruộng lúa ( đất canh tác ) có 1.258 người. So với Nam phần thì có 425 người mỗi cây số vuông ruộng lúa. [ 68 ]Phân chia theo sắc tộc thì có 394.463 người Việt gốc Miên, 23.819 người Chàm và 464.354 người Thượng. Số liệu người Thượng không đúng chuẩn vì họ sống du canh ở những vùng hẻo lánh và việc kiểm tra bị hạn chế vì tình hình bảo mật an ninh. Người Hoa chiếm khoảng chừng một triệu người, tập trung chuyên sâu ở Chợ Lớn và một số ít thị xã. Đông nhất là người Kinh : 15.409.126, chiếm 94,7 %. [ 68 ]Thành phố lớn nhất là TP. hà Nội Hồ Chí Minh với 1.736.880 dân, tính vùng phụ cận là 2.500.000. [ 68 ]

Văn hóa và xã hội

Buổi lễ trao Trao Giải Văn chương Toàn quốc năm 1961 ở TP HCMThời Đệ Nhất Cộng hòa những đợt nghỉ lễ chính là : [ 73 ]

  • Quốc khánh 26 Tháng 10
  • Tết Nguyên đán
  • Lễ Hai Bà Trưng
  • Lễ Trần Hưng Đạo
  • Lễ Lê Thái tổ
  • Lễ Phật đản
  • Lễ Giáng sinh, 25 Tháng 12

Vào thời Đệ Nhị Cộng hòa những ngày nghỉ chính thức cho những văn phòng gồm có : [ 74 ]

  • Tết Tây 1 Tháng Giêng
  • Lễ Phục sinh
  • Lễ Lao động, 1 Tháng Năm
  • Quốc khánh 1 Tháng 11 (kỷ niệm cuộc đảo chính lât đổ Ngô Đình Diệm)
  • Giáng sinh 25 Tháng 12

Ngoài ra những đợt nghỉ lễ truyền thống theo âm lịch sau đây cũng được nghỉ nguyên ngày : [ 74 ]

  • Tết Nguyên đán, nghỉ 3 ngày rưỡi từ chiều 30 Tết đến hết ngày mồng 3 Tết
  • Giỗ Tổ Hùng Vương, 10 Tháng Ba, nghỉ 2 ngày
  • Lễ Phật đản, rằm Tháng Tư (công nhận năm 1958),[75] rằm Tháng Tư
  • Thích Ca thành đạo, 6 Tháng Chạp

Tổng cộng là 13 ngày nghỉ chính thức cho công chức. [ 76 ]Ngoài ra còn có những dịp nghỉ lễ truyền thống tính theo âm lịch như ngày Giỗ trận Đống Đa ( 5 Tháng Giêng ), Lễ Hai bà Trưng ( cũng là ngày Phụ nữ Việt Nam ) ( 6 tháng 2 ), Giỗ Nguyễn Du ( 10 Tháng Tám ), Lễ Đức Thánh Trần ( 20 Tháng Tám ), Giỗ Lê Lợi ( 22 Tháng Tám ), Giỗ Phan Bội Châu ( 29 Tháng Chín ) cũng là những đợt nghỉ lễ chính thức tuy văn phòng vẫn thao tác. Có một số ít ngày lễ hội khác như Vu-lan ( rằm Tháng Bảy ) và tết Trung thu ( rằm Tháng Tám ) [ 77 ] ( còn có tên là Ngày Thiếu nhi Sản xuất ), Ngày Nông dân Việt Nam ( 26 Tháng 3 ), Ngày Quân lực ( 19 Tháng 6 ), Ngày Quốc tế Viện trợ ( 22 Tháng 6 ) Ngày Cựu chiến binh ( 9 Tháng 7 ), Ngày Nhân dân Tự vệ ( 5 Tháng 8 ) được liệt vào ” ngày đặc biệt quan trọng ” không nghỉ nhưng có tiết mục kỷ niệm của chính quyền sở tại. [ 74 ]Một thành tựu văn hóa truyền thống tại Miền Nam là ngành tân nhạc với khoảng chừng 10.000 bản nhạc sinh ra trong khoảng chừng thời hạn 1945 – 75. Đại đa số những bản nhạc này sau năm 1975 đều bị chính quyền sở tại mới cấm lưu hành [ 78 ] thường gọi là nhạc vàng .nhà nước đã hoàn tất việc thiết kế xây dựng Thư viện Quốc gia Việt Nam, thi công từ năm 1968 nhưng đến năm 1971 mới khánh thành tòa cao ốc. Lúc Open, Thư viện có 121.000 đầu sách. [ 79 ] Năm 1975 khi chính quyền sở tại mới tiếp thu thì thư viện này có 200.000 đầu sách. [ 80 ] Dự tính của cơ quan chính phủ sẽ tiến tới việc xây dựng Hàn lâm Viện nhưng trong bước đầu chỉ có Ủy ban Điển chế Văn tự thuộc Bộ Văn hóa. [ 81 ]Một đặc thù của xã hội miền Nam vào thời gian đó là sự phong phú của xã hội dân sự, tức thành phần không thuộc chính phủ nước nhà mà cũng không thuộc thị trường kinh doanh thương mại. Những cơ sở tên tuổi trong ngành công tác làm việc xã hội là cô nhi viện Dục Anh, Cô nhi viện Quách Thị Trang trại giáo hóa thanh thiếu niên phạm pháp Quận Thủ Đức, viện dưỡng lão Thị Nghè, TT hướng nghiệp Vườn Lài, Quán cơm xã hội Anh Vũ ( phát cơm cho người nghèo ). [ 82 ] Cùng đó là những đoàn thể tiêu biểu vượt trội như Hội Hồng Thập Tự, tổ chức triển khai Hướng đạo Việt Nam, Trường Bách khoa Bình dân, nhóm Thanh niên Phụng sự Xã hội và mái ấm gia đình Phật tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Thiếu nhi Thánh thể, Phong trào Du ca Việt Nam, Hội Thanh niên Thiện chí, v.v. Đây là một độc lạ lớn giữa hai miền Nam Bắc trong thời hạn quốc gia chia đôi. [ 83 ]

Giáo dục đào tạo

Áp phích miêu tả lễ khánh thành một trường tiểu học ở Kontum

Trước năm 1954, ở miền Nam có một chi nhánh của Viện Đại học Hà Nội (tiếng Pháp: Université de Hà Nội) đặt tại Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, chi nhánh này cùng với một bộ phận của Viện Đại học Hà Nội chuyển từ miền Bắc vào trở thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam. Vào năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam trở thành Viện Đại học Sài Gòn theo sau việc thành lập Viện Đại học Huế.[84] Đến năm 1973, Viện Đại học Sài Gòn đã đào tạo theo chương trình quốc tế. Sau này các bác sĩ Việt Nam di tản sang Mỹ, chỉ cần một hai năm đào tạo lại và học thêm tiếng Anh là hành nghề được[85]

Ngoài Viện Đại học Hồ Chí Minh, Việt Nam Cộng hòa còn có những viện ĐH khác như Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Viện Đại học Hòa Hảo, Viện Đại học Cao Đài, v.v… Năm 1973, tổng số sinh viên ĐH tăng lên 98.832 người so với chỉ 2.900 người vào năm 1955. Số học sinh trung học trong cùng năm ấy là trên một triệu so với 43.000 ; và học viên tiểu học, trên ba triệu so với 401.000. Ngoài ra còn những trường ĐH hội đồng ( trường ĐH hệ hai năm ), trường huấn nghiệp và những chương trình công nghệ tiên tiến. [ 85 ] Các trường ĐH hội đồng được thiết lập từ năm 1970 trở đi, đặt cơ sở ở Định Tường, Nha Trang, TP HCM, Thành Phố Đà Nẵng, Vĩnh Long … [ 84 ]

Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là “nhân bản, dân tộc và khai phóng”. Điều này ghi trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó được ghi lại trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967.[84] Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam Cộng hòa lại chưa có văn bản cụ thể hóa cách hiểu ba nguyên tắc này là như thế nào, vì vậy, khi áp dụng những nguyên tắc này vào thực tế thì bị lúng túng, vá víu. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa cũng ghi nhận “nhà nước cố gắng xây dựng nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “giáo dục đại học được tự trị” và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.[86] Tuy nhiên, do ngân sách giáo dục eo hẹp, hệ thống trường học thiếu thốn và không có chính sách khuyến học hiệu quả nên có nhiều trẻ em nghèo vẫn không thể đến trường. Chỉ khoảng 24% tổng số thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18 là được đi học[87]. Nội san AĐS cho biết: “Cứ 100 em vào lớp đầu của bậc tiểu học thì chỉ có 3 em được học trung học đệ nhị cấp, còn 97 em bị hất ra ngoài nền giáo dục đại chúng của ông Thiệu, và trong tiểu học có 51% học sinh không được học lên lớp 4”[88] Tới năm 1974, tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính vào khoảng 70% dân số[89], 30% còn lại vẫn mù chữ.

Trong suốt quá trình tồn tại, giáo dục Việt Nam Cộng hòa có sự hỗ trợ lớn cả về tài chính và nhân sự của Mỹ. Theo Nguyễn Khắc Viện, mục tiêu của Mỹ trong việc này là đào tạo nên đội ngũ cán bộ chính phủ chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng và văn hóa Mỹ[90]. Nhiều bộ sách giáo khoa được lồng ghép nhiều mục tiêu chống Cộng của Việt Nam Cộng hòa, ví dụ sách giáo khoa giáo dục công dân lớp 4 của Bộ giáo dục năm 1960 ghi rằng “Cộng sản là những kẻ phản bội gia đình, đất nước và tôn giáo“[91]. Có quan điểm cho rằng các môn học về xã hội (lịch sử, địa lý) thời Việt Nam Cộng hòa thường nặng về ca tụng sự viện trợ của Pháp, Mỹ, nền độc lập giả hiệu của chế độ tay sai và biện minh cho hành động xâm lược của ngoại quốc[92].

Y tế

Hệ thống y tế nhìn chung là nhỏ bé, thường bị quá tải và thiếu thuốc men. Theo cựu bộ trưởng liên nghành y tế Việt Nam Cộng hòa vấn đáp thì vào năm 1967, toàn miền nam khi đó chỉ có khoảng chừng 160 bác sĩ, và chỉ có khoảng chừng 5 nữ hộ sinh cho mỗi 100.000 người dân. Toàn bộ chương trình y tế công cộng của Việt Nam Cộng hòa chỉ được phân chia khoảng chừng 2 % tiêu tốn ngân sách. Tại Huế, một bệnh viện 1.500 giường trọn vẹn không nhận được dụng cụ y tế từ nhà nước, chỉ có sự trợ giúp từ cơ quan chính phủ Tây Đức thì nó hoàn toàn có thể liên tục hoạt động giải trí. Bác sĩ David McLanahan cho biết vào mùa hè năm 1966, Bệnh viện phẫu thuật Thành Phố Đà Nẵng có 350 giường bệnh nhưng chưa khi nào có dưới 700 bệnh nhân. Toàn miền Nam chỉ có khoảng chừng 100 bệnh viện, trạm y tế với khoảng chừng 25.000 giường bệnh, việc 2 hoặc 3 bệnh nhân nằm chung một giường không phải là hiếm ( 2 bệnh nhân nằm chung một giường đã trở thành quy tắc bắt buộc tại TP. Đà Nẵng ). [ 93 ]Bệnh viện nhi duy nhất phải chứa khoảng chừng 600 bệnh nhân cho 220 giường bệnh, nên nhiều trẻ phải nằm trên giấy báo và trong những bệnh viện khác, 1 số ít tờ báo và giấy gói thường được sử dụng để băng bó vết thương, vì đó là vật liệu duy nhất có sẵn. Viện trợ y tế của Mỹ không thấm tháp gì so với hàng ngàn trẻ nhỏ bị bỏng nặng bởi bom napalm và bom phosphor do quân Mỹ thả xuống. Bệnh nhân bỏng nặng nhiều khi chỉ được sơ cứu rồi bị đuổi khỏi phòng bệnh để lấy chỗ cho những trường hợp nguy cấp hơn. Kết quả là nhiều trường hợp phải cắt cụt chi để đỡ tốn thời hạn điều trị. [ 93 ]

Thể thao

Các đội tuyển thể thao của Việt Nam Cộng hòa đã sớm tham gia tranh tài quốc tế tại châu Á, đặc biệt quan trọng là môn bóng đá. Đội thể thao của Việt Nam Cộng hòa tham gia thể thao ở những kỳ đại hội SEAP Games ( nay là SEA Games ), Asiad, Thế vận hội Mùa hè đến năm 1975 .Về bóng đá, đội tuyển Việt Nam Cộng hòa có 2 thành tích chính : giành huy chương vàng môn bóng đá tại SEAP Games năm 1959 ( giải đấu năm đó có 4 đội tham gia ), [ 94 ] và giành cúp vô địch giải Merdeka Cup năm 1966 [ 95 ] Tuy nhiên, kể từ năm 1970, thành tích của đội bị suy giảm, số trận thắng ít hơn nhiều so với số trận thua [ 96 ]Với những môn thể thao nói chung, Việt Nam Cộng hòa giành được 2 chiếc huy chương vàng tại Đại hội Thể thao châu Á 1958 ở Nhật Bản và xếp hạng 8 trong số 20 nước tham gia kỳ đại hội này [ 97 ] Ngoài ra Việt Nam Cộng hòa còn tham gia nhiều môn thể thao tại những kỳ đại hội thể thao Khu vực Đông Nam Á ( SEAP Game, tiền thân của SEAGames sau này ), Asiad đến năm 1975. Nhìn chung tại SEAP Game, đoàn Việt Nam Cộng hòa thường xếp vị trí 5/6 hoặc 6/7 trong số những đoàn tham gia, có 2 kỳ xếp dưới cả Campuchia ( 1971 và 1973 ), chỉ riêng năm 1961 đạt hạng 4/7. [ 98 ]

Đại hội Thể thao châu Á (1958-1970)

Đại hội

Xếp hạng

Vàng

Bạc

Đồng

Tổng

Tokyo 1958

8/20

2

0

4

6

Băng Cốc 1966

14/18

0

1

2

3

Băng Cốc 1970

16/18

0

0

2

2

Tổng

2

1

8

11

Cơ sở hạ tầng

Máy bay DC-3 hãng Air Viet Nam và hành khách năm 1961 ở phi trường Phú QuốcMột hệ quả của cuộc chiến tranh là mang tới cho Miền Nam một hạ tầng cơ sở khá tốt so với những nước đang tăng trưởng trong thời kỳ đó. Để Giao hàng mục tiêu quân Pháp, Mỹ cho xây nhiều trục đường và trường bay, điều này gián tiếp giúp tăng trưởng kinh tế tài chính dù việc thiết kế xây dựng hạ tầng là rất tốn kém và mất thời hạn .

Giao thông

Về đường hàng không, ngoài những phi trường lớn như cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Cam Ranh, Thành Phố Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Biên Hòa hoàn toàn có thể đảm nhiệm phản lực đủ loại còn có những phi trường nhỏ ở Đà Lạt, Huế, Kontum, Phú Quốc. Pleiku, Rạch Giá và Qui Nhơn. Cộng thêm vào là khoảng chừng 100 trường bay nhỏ, rải rác khắp nơi, rất tiện cho việc liên lạc giữa những địa phương. [ 99 ] Hãng Air Vietnam là công ty không vận chính .

Khánh thành Xa lộ Biên HoàVề đường thủy và đường đi bộ, miền Nam có tới 4.780 cây số sông, rạch ( 3.000 dặm Anh ). Hải cảng lớn gồm TP HCM, Cam Ranh, TP. Đà Nẵng, Nha Trang, Rạch Giá. Còn đường sá có tới 21.000 km đường trong đó gần 12.000 km là đường trải nhựa, đi được quanh năm. [ 100 ] Cầu những loại qua sông tới gần 4.000 cây rất nhiều cầu đã bị hư hỏng do cuộc chiến tranh, nhưng sửa chữa thay thế lại thì cũng nhanh. Xe lam, xe xích lô máy và phương tiện đi lại vận động và di chuyển với động cơ dưới 49 cc thì không thuộc dạng phải ĐK. [ 101 ] Tính đến năm 1974 thì có tổng số 258.514 xe lưu thông trên mạng lưới hệ thống đó ( gồm có 35.384 xe vận tải đường bộ nặng và 64.229 chiếc xe hơi ), chưa kể xe gắn máy ( có khoảng chừng 800.000 vào cuối thập niên 1960, tổng thể được nhập khẩu từ Nhật và Ý ). Tuy nhiên, đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động khiến lạm phát kinh tế trở nên nghiêm trọng, khiến cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe từ quốc tế. [ 102 ]Xa lộ thiết kế xây dựng tiên phong là xa lộ Biên Hòa, khánh thành ngày 28 tháng 4 năm 1961. Về đường tàu, tuyến đường sắt Xuyên Đông Dương đã được Pháp làm xong từ năm 1936, nhưng đến thập niên 1950 thì đoạn đường phía nam vĩ tuyến 17, khoảng chừng 1/3 đã bị hư hại vì cuộc chiến tranh, không sử dụng được. [ 103 ] Còn lại là hai khúc từ Đông Hà vào Thành Phố Đà Nẵng và từ TP HCM ra Ninh Hòa. Việc tái thiết lê dài bốn năm cho đến năm 1959 thì xe lửa mới chạy được suốt từ TP HCM ra Đông Hà, lần tiên phong sau 12 năm gián đoạn. [ 104 ] Năng suất đường tàu lúc đầu có nhiều triển vọng nhưng sang thập niên 1960 thì tình hình bảo mật an ninh là một cản trở lớn. Năm 1963 trở đi thì xe lửa hành khách không chạy vào đêm nữa vì những đợt tiến công của Mặt trận dân tộc bản địa trên tuyến đường từ Huế vào Hồ Chí Minh. [ 105 ] Tính đến năm 1971 – 1972 thì Việt Nam Cộng hòa có 1.240 km đường sắt nhưng chỉ có 57 % sử dụng được. Dù vậy, tổng lượng hành khách và sản phẩm & hàng hóa chuyên chở bằng đường tàu lại tăng dần. [ 106 ]

Năm

Tổng lượng hàng hóa vận tải (tấn)

Số lượng hành khách (triệu người)

1959[107]

440.000

2,658

1968

400.000

0,73

1969

530.000

1,75

1970

720.000

2,4

Tuy nhiên, khi Mỹ dần rút quân thì hạ tầng giao thông vận tải dần xuống dốc do thiếu kinh phí đầu tư duy trì. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ nên kinh tế tài chính Việt Nam Cộng Hòa bị suy thoái và khủng hoảng, lạm phát kinh tế trở nên nghiêm trọng, khiến cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ quốc tế. Cuộc khủng hoảng cục bộ dầu mỏ năm 1973 liên tục giáng một đòn mạnh vào mạng lưới hệ thống giao thông vận tải. Do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi Mỹ giảm viện trợ kinh tế tài chính, Việt Nam Cộng hòa lâm vào thực trạng thiếu xăng dầu, nhiều xe cộ phải xếp xó, những nhà khá giả cũng chỉ đủ tiền mua xăng chạy xe khi có dịp quan trọng. Ngay cả ở Hồ Chí Minh, thực trạng người dân phải đi bộ hoặc đi xe đạp điện để tới chỗ làm cách xa vài km đã trở nên thông dụng từ năm 1973 [ 108 ]

Hệ thống viễn thông và thông tin

Tính đến năm 1970 Miền Nam có 20.000 điện thoại thông minh dân sự ĐK, [ 109 ] tính cả nước là 30.964. [ 110 ] Mạng điện thoại cảm ứng và điện tín thuộc ty bưu điện với đường dây nối Hồ Chí Minh với Đài Bắc, Calcutta, Manila, Osaka, Paris, Brussel, Bern, Bonn, Madrid và Thành Phố New York. Trong nước mạng lưới hệ thống điện thoại cảm ứng nối Hồ Chí Minh với 21 tỉnh lỵ. [ 111 ]Hệ thống phát thanh vương quốc Việt Nam, tức đài radio mang tên Vô tuyến Việt Nam ( VTVN ) vào giữa thập niên 1960 gồm có đài TW ở TP HCM và tám đài khu vực phát sóng từ Huế, TP. Đà Nẵng, Tỉnh Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Ban Mê Thuột, Nha Trang, Đà Lạt và Cần Thơ. Ngoài ra có những đài địa phương ở những tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Long An, Kiến Tường và Định Tường. [ 112 ] Đến năm 1972 thì có tổng số 49 đài phát thanh và 5 đài truyền hình đặt ở Hồ Chí Minh, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang và Cần Thơ. Toàn quốc ( 1967 ) có 1.300.000 radio. [ 110 ]Truyền hình thì khởi đầu ngày 7 Tháng Hai 1966, lúc đầu chỉ phát hình một giờ mỗi ngày. [ 113 ] Sau vào đầu thập niên 1970 thời lượng phát hình của Đài Truyền hình Việt Nam là sáu giờ mỗi ngày vào buổi chiều. 80 % dân chúng ở Miền Nam hoàn toàn có thể bắt sóng xem được. [ 114 ]Nhật báo trong nước có 48 tờ nhật báo phát hành, đại đa số bằng tiếng Việt nhưng cũng có nhật báo bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa và tiếng Miên. Tính trung bình cho mỗi 1.000 người thì có 51 ấn bản báo chí truyền thông. [ 109 ]Rạp chiếu bóng tính đến năm 1964 có 170 rạp chiếu phim 35 mm, trong đó khoảng chừng 100 rạp tập trung chuyên sâu ở vùng Hồ Chí Minh, Chợ Lớn. [ 115 ]

Điện lực

Công suất điện lực đạt 125 MW năm 1961 [ 116 ] nhưng do cuộc chiến tranh nên tụt xuống còn 117 MW ( năm 1968 ). Sang năm 1971 lên được 278 MW. [ 117 ]Phân tích thành phần nguồn điện năm 1961 thì 56 % bằng nhiệt điện đốt than, 43 % bằng dầu diezen và 1 % bằng thủy điện với đập Đa Nhim mở màn hoạt động giải trí Tháng Tư năm 1961. [ 116 ]

Đánh giá

Quan điểm của đối phương

Theo quan điểm của đối phương tức nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì họ không công nhận sự hợp pháp của chính phủ nước nhà Việt Nam Cộng hòa. Họ xem nó chỉ là một thứ ” vương quốc giả hiệu ” để Hoa Kỳ hợp thức hóa mưu đồ chia cắt Việt Nam của Mỹ. [ 118 ]

Cũng theo quan điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ lập ra để “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”, ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tranh cách mạng ở nông thôn, bình định đồng bằng, lập ấp chiến lược để dồn dân, chiếm đóng, khống chế quần chúng. Hoa Kỳ thí nghiệm cuộc chiến tranh đó để rút kinh nghiệm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đe doạ các nước mới giành được độc lập, bắt các nước đó phải chấp nhận chủ nghĩa thực dân mới.[119] Do vậy một phần lớn người dân miền Nam không ủng hộ Việt Nam Cộng hòa mà đã đi theo phong trào Đồng khởi giành chính quyền[120] Các chiến lược chiến tranh của Hoa Kỳ và kế hoạch lập “Ấp chiến lược” của Việt Nam Cộng hòa đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của người dân miền Nam nên đã phá sản.[121] Lực lượng vũ trang của quân Giải phóng có thể đánh nhiều trận táo bạo, có hiệu suất cao cũng là nhờ có sự hỗ trợ của nhân dân miền Nam.[122] Vùng quân Giải phóng kiểm soát nhờ đó được mở rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc giúp họ đương đầu được với quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa.[123]

Đài Tiếng nói Việt Nam – cơ quan phát thanh vương quốc của Việt Nam nhận định và đánh giá :

Chính nghĩa không thuộc về chế độ “Việt Nam Cộng hòa”. Ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…)… Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo nhân dân và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó… Ông Ngô Đình Diệm – do CIA (Mỹ) “tìm thấy” và đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại – đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Geneva, và đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc…
Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là chính thể Quốc gia Việt Nam (1949-1955) – đây là một chế độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do Bảo Đại (mất ngôi hoàng đế sau Cách mạng tháng Tám) làm quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của “Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”… Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ… Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ… Còn tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên.[124]

Bên cạnh đó, Việt Nam Cộng hòa không phải là một chính thể được lòng dân. Cũng Đài Tiếng nói Việt Nam nhận định và đánh giá :

“Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân luôn hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam… Ở miền Nam liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả… các hoạt động đấu tranh vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông thôn (như phong trào đồng khởi ở Bến Tre và toàn Nam bộ)… Nằm ngay cửa ngõ Sài Gòn là khu “đất thép” Củ Chi của các du kích và quân giải phóng miền Nam, tồn tại bao năm như cái gai thách thức chế độ Mỹ-ngụy… Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh, chỉ cho thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào… Vì rõ ràng, những người cộng sản không thể tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt, rộng khắp và mãnh liệt trong thời gian dài như vậy (trên toàn đô thị miền Nam, trong điều kiện hết sức khó khăn) nếu thiếu sự che chở bao bọc của đông đảo nhân dân…
Nếu Việt Nam Cộng hòa thực sự hợp lòng dân, được nhân dân ủng hộ thì có lẽ sẽ không xuất hiện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (vào năm 1960), cùng với lực lượng Quân Giải phóng miền Nam (năm 1961), rồi sau đó là chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (vào năm 1969) ngay trên phần đất của miền Nam Việt Nam, với nhân lực chính là người miền Nam, nói giọng miền Nam. Như vậy ở phía nam vĩ tuyến 17 đã hình thành 2 vùng kiểm soát với 2 quân đội tương ứng, khiến cho tính hợp pháp và chính danh của chế độ Việt Nam Cộng hòa vốn đã kém lại càng bị thách thức nghiêm trọng…
Thậm chí ngay cả ở những vùng Mỹ-ngụy chiếm giữ, vẫn tồn tại song song hai hệ thống chính quyền, hai lực lượng. Một bên là chế độ ngụy công khai, một bên là các đảng bộ cộng sản cùng các đơn vị công an và bộ đội địa phương hoạt động ngầm tương ứng với các đơn vị hành chính… Lực lượng tình báo cách mạng đã xâm nhập hết sức hiệu quả vào bộ máy an ninh tình báo ngụy và hệ thống chính quyền ngụy, kể cả ở cấp cao nhất… Trước giờ cáo chung, ngụy quyền còn tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong biển máu. Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy quần chúng hồ hởi đón chào quân giải phóng đến nhường nào trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn… Như vậy, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại xâm và tay sai của ngoại bang.”[124]

Năm 1965, khi vấn đáp phỏng vấn nhà báo quốc tế về việc đàm phán độc lập có phụ thuộc vào đa phần vào Mặt trận dân tộc bản địa giải phóng miền Nam và chính quyền sở tại TP HCM ( chỉ Việt Nam Cộng hòa ) hay không, quản trị Hồ Chí Minh công bố [ 125 ] :

Về câu hỏi này, lập trường 4 điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã trả lời rõ (Chính phủ Mỹ phải chấm dứt ngay những cuộc tiến công bằng không quân vào lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, rút quân đội và các loại vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam); và tuyệt đối không có vấn đề “chính quyền Sài Gòn”, một sản phẩm do đế quốc Mỹ nặn ra mà nhân dân chúng tôi phỉ nhổ và không một ai trên thế giới đếm xỉa đến.

Quan điểm của chính quyền sở tại Mỹ

Tài liệu được giải mật của Lầu Năm Góc vào năm 2010 cũng viết: “Không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững được ở miền Nam… Nam Việt Nam, về bản chất, là một sáng tạo của Hoa Kỳ”[126] Thậm chí tổng thống Mỹ Nixon trong lúc tức giận còn từng nói: “Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được.”[127]

Tại cuộc họp do Hội “American Friends of Vietnam”, một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C. ngày 1/6/1956, John F. Kennedy (về sau là Tổng thống Mỹ) tuyên bố: “Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta chủ tọa lúc nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (…). Đó là con cái của chúng ta – chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó”.[9]

Thượng nghị sĩ Donald Duncan sau khi từ Việt Nam về nước đã cho xuất bản một bản báo cáo về cuộc chiến tranh Việt Nam đăng Tạp chí Ramparts (tháng 02/1965), trong đó ông đã nhận xét: “Tôi đã phải chấp nhận thực tế rằng… đại đa số người dân Việt Nam ủng hộ Việt Cộng và chống lại chính phủ Sài Gòn”[128]

Trung tướng Bernard Trainor, từng phục vụ ở Việt Nam hai lần, của cả hai loại hình Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh cục bộ, so sánh cuộc chiến ở Việt Nam với cuộc chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ: “Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với cuộc Cách mạng của Mỹ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập… Hy vọng ban đầu là thu phục trái tim khối óc của người dân, nhưng hy vọng này đã bị tan tành bởi sự thất bại của chính quyền Sài Gòn trong việc giành tín nhiệm của người dân và chiến lược Tìm và diệt của Westmoreland…”.[129]

Quan điểm của giới chức Việt Nam Cộng hoà

Các quan chức cấp cao Việt Nam Cộng hoà cũng công nhận sự chịu ràng buộc của họ vào Hoa Kỳ. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã từng phát biểu :

“Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc Lập!”.[130]

Trong bài viết “30/4/1975, Dương Văn Minh và tôi”, Nguyễn Hữu Thái thuật lại lời Tổng thống Dương Văn Minh đã nói với ký giả Francois Vanuxem khi được ông này khuyên rút về Vùng 4 chiến thuật để chờ Trung Quốc can thiệp nhằm tìm một giải pháp trung lập hóa Miền Nam:

“Hết Tây (Pháp) rồi đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao!”.[131]

Ông Hồ Ngọc Nhuận, một dân biểu thời Việt Nam Cộng Hòa vấn đáp phỏng vấn năm 2009 :

“Ngày xưa tôi gọi đây là chiến tranh của Mỹ tại vì ổng (Mỹ) vô trong này từ cấp lớn đến cấp nhỏ ổng đều ở trên đầu, ổng làm cố vấn hết. Từ trên xuống dưới là của ảnh hết, súng cũng của ảnh, hành quân cũng của ảnh, đánh gì cũng của ảnh và trách nhiệm cũng của ảnh. Còn ông tổng thống trước khi ổng chạy đi thì ổng lên tiếng chửi Mỹ. Cái người ủng hộ Mỹ nhất mà cũng quay lại chửi Mỹ thì hỏi tôi không chống Mỹ sao được?”[132]

Năm 2005, khi và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên, nguyên Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận định rằng:

“Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê…”[133]

Trong bộ phim tài liệu của hãng PBS, ông kể rằng mình cùng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh và Nguyễn Chánh Thi từng bị đại sứ Mỹ triệu tập và đập bàn và ghế trách mắng thậm tệ, rằng :

“Từ nhỏ tới lớn, ngay cả cha ruột cũng chưa bao giờ chửi mắng tôi nặng nề và lâu đến như vậy”[134]

Tướng tổng tư lệnh Nguyễn Khánh thì phải rời khỏi Việt Nam bởi mệnh lệnh từ chính Đại tướng Mỹ Maxwell D. Taylor, năm sau Nguyễn Chánh Thi cũng chịu chung số phận. [ 135 ]Đại tướng Cao Văn Viên viết trong hồi ký :

“Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh. Trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi !”[136]

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh thì nói :

“Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay… Người Mỹ họ có đường lối của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao Mỹ đều nắm hết.”[137]

Nguyễn Tiến Hưng, bộ trưởng liên nghành kinh tế tài chính Việt Nam Cộng hoà nhận xét về sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà :

Tôi cũng đồng ý với câu phương châm “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” của người xưa. Trước những thất bại, ta phải tự trách mình trước. Về chính trị, các bình luận gia thường nêu lên những yếu kém, khuyết điểm của lãnh đạo và người dân Việt Nam Cộng hoà. Lãnh đạo thì độc tài, thiếu khả năng, quá tin vào Mỹ, tham nhũng, có khi còn xa hoa quá mức. Nhân dân thì chia rẽ, một phần thì thờ ơ, chống đối, chán chường một cuộc chiến dài lê thê.

Tất cả những nhận xét trên, không ít thì nhiều đều có phần xác đáng. Tuy nhiên, sau khi theo rõi cuộc chiến nhiều năm, trước hết là từ ngay trên đất Mỹ (vào những năm 1958-1972), cũng như đã được chứng kiến những sự việc ở hậu trường trong ba năm cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà (1973-1975), rồi nghiên cứu thêm từ đó, tôi vẫn khẳng định rằng sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ gần như hoàn toàn, cả về vật chất lẫn tâm lý đã là yếu tố quyết định (cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà).

Về mặt kinh tế, khi chiến tranh leo thang, sản xuất trong nước không phát triển được, lại còn tụt hậu, cung ứng cho nhu cầu của nhân dân phải dựa vào đôla của Mỹ để nhập cảng. Những sản phẩm cho nhu cầu từ ăn, ở, mặc, tới vận chuyển, một tỷ lệ rất quan trọng được đáp ứng từ viện trợ Mỹ… về vật chất, sự lệ thuộc đã hầu như là toàn diện. Tình trạng này lại còn dẫn tới sự lệ thuộc về tinh thần và tâm lý. Nếu Mỹ còn giúp, thì các nhà lãnh đạo và quân đội Việt Nam Cộng hoà còn chịu đựng, chiến đấu. Nếu có dấu hiệu là Mỹ bắt đầu bỏ, thì tinh thần bắt đầu sa sút. Tới lúc bỏ thật là sụp đổ

…Về chính trị, phía Mỹ luôn chủ động như vậy, còn về quân sự? Ngay từ lúc Mỹ mới nhúng tay vào Miền Nam cũng đã có sự bất đồng về chiến thuật giữa các cố vấn Mỹ và tướng lãnh Việt Nam Cộng hoà. Trong một buổi họp, viên tư lệnh Mỹ ở Miền Nam, Tướng John W. O’Daniel đã nói toạc ra là “Ai chi tiền thì người đó chỉ huy” (Who pays, commands)

Khi Việt Nam Cộng hoà hấp hối, Henry Kissinger còn nguyền rủa: “Sao chúng (Việt Nam Cộng hoà) không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài”
[138]

Nguyễn Văn Ngân, nguyên trợ lý đặc biệt quan trọng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã nhận xét :

“Người Mỹ đã thay thế người Pháp với chính sách thực dân mới. Vào thế kỷ XX, người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt trong việc thiết lập một “tiền đồn chống Cộng” tại Đông Nam Á… Nền dân chủ mà người Mỹ tán dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chính và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ…”[139]

Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng Việt Nam Cộng hòa :

“Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn cũ (Việt Nam Cộng hòa) là tất yếu”[140]

Quan điểm của trào lưu phản chiến tại Mỹ

Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm biếm : Đế quốc Mỹ và ” Con rối Hồ Chí Minh “Năm 1972, Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ tổ chức triển khai một cuộc điều trần về cuộc cuộc chiến tranh Việt Nam suốt ba ngày liền, xoay quanh chủ đề nguồn gốc, nguyên do của đại chiến Việt Nam và những bài học kinh nghiệm rút ra từ đó. Bốn học giả có tên tuổi đại diện thay mặt cho trào lưu phản chiến Leslie Gelb, James Thomson, Arthur Schlesinger và Noam Chomsky, từng điều tra và nghiên cứu nhiều về Việt Nam, được Quốc hội Mỹ mời đến báo cáo giải trình góp quan điểm cho Quốc hội về cuộc cuộc chiến tranh Việt Nam. Đánh giá về Việt Nam Cộng hòa, giáo sư Noam Chomsky của học viện chuyên nghành MIT đã nói :

“Chính phủ Nam Việt Nam đã trở thành nơi ẩn nấp của những người Việt Nam từng đi theo Pháp trong cuộc chiến đấu chống lại nền độc lập của đất nước họ. Chính phủ Nam Việt Nam không có cơ sở thành trì trong nhân dân. Nó đi theo hướng bóc lột dân chúng nông thôn và tầng lớp dưới ở thành thị, trên thực tế nó là sự tiếp tục chế độ thuộc địa của Pháp”[7]

Theo một góc nhìn khác, tiến sỹ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong quyển sách ” Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam ” đã viết :

“Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía (Việt Nam Cộng hòa) hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì đó không phải là một cuộc nội chiến…”[141]

Quan điểm của giới sử gia phương Tây

Nhiều nhà sử học phương Tây thì xem chính thể này như thể loại sản phẩm của chủ trương can thiệp thực dân mới mà Mỹ triển khai tại Khu vực Đông Nam Á. [ 142 ] [ 143 ] [ 144 ]Nhà sử học Frances FitzGerald viết :

“Chiến thắng của họ (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) là chiến thắng của dân tộc Việt Nam – người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội”[145]

Nhiều sử gia cho rằng chính thể này là một chính phủ con rối của Mỹ.[146] Chuyên gia bình định, Trung Tá Mỹ William R. Corson thừa nhận rằng “vai trò của chế độ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam là “cướp bóc, thu thuế, tái lập lại địa chủ, và tiến hành trả thù chống lại người dân”. Nhà sử học James Gibson tóm tắt tình hình: “Chế độ miền Nam Việt Nam không có khả năng chiến thắng vì không có sự ủng hộ của những người nông dân, nó đã có không còn là một “chế độ” theo đúng nghĩa. Liên minh chính trị bất ổn định và hoạt động bộ máy thì quan liêu. Hoạt động của chính phủ dân sự và quân sự đã hầu như chấm dứt. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã gần như tuyên bố quyền kiểm soát tại các khu vực rộng lớn… nó rất khác với một chính phủ Sài Gòn yếu ớt, không có nền dân chủ cơ bản và một mong muốn mạnh mẽ cho sự thống nhất Việt Nam”.[147]

Craig A. Lockard nhận xét rằng :

“Trong sự khinh thường của những người Mỹ mà họ phục vụ, Việt Nam Cộng hòa chỉ là một thứ công cụ để hợp thức hóa việc phê chuẩn, nếu không phải là thường bị loại ra khỏi sự chỉ đạo của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa hiếm khi đưa ra chính sách lớn, họ thậm chí còn không được tham khảo ý kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ.”[50]

Nhà sử học Gregory Daddis nhận xét: những hành vi tội ác của quân đội Việt Nam Cộng hòa khiến người dân xem họ như kẻ thù. Một nông dân kể rằng “Khi quân đội Việt Nam Cộng hòa tới, mọi người trong làng đều bị đe dọa… Quân đội thoải mái đánh đập bất cứ ai, giết bất cứ ai”, người khác kể rằng “cứ mỗi lần quân đội Việt Nam Cộng hòa tới thì lại càng có nhiều người dân ủng hộ Việt cộng”. Khi được hỏi tại sao người dân không ủng hộ chính phủ Sài Gòn, một người dân trả lời “vì quân đội Việt Nam Cộng hòa… thường xuyên đốt nhà của dân làng và hiếp dâm phụ nữ”. Không có cách nào để Việt Nam Cộng hòa có thể đánh bại đối phương khi mà người dân đã xa lánh họ và quan hệ thân thiết với quân Giải phóng.[148]

Nhà sử học Marilyn Young nhận xét :

“Sự tha hóa tư sản của chính phủ Nam Việt Nam từ thời Diệm đã trở nên tồi tệ hơn khi người khác kế nhiệm ông. Chính quyền Sài Gòn vô vọng, tham nhũng, đàn áp dân chủ dữ dội. Đến cuối thập niên 1960 đã có hàng ngàn tù nhân chính trị ở Nam Việt Nam. Bầu cử là một trò hề, không có quá trình cải cách khả thi cho chính quyền Sài Gòn và kết quả là nhiều nhà cải cách tham gia cuộc đấu tranh vũ trang của đối phương.” Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và cho thuê đất với nông dân nghèo, Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Nông dân đã phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất. Tiền thuê đất này được thu bởi quân đội Nam Việt Nam. Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội Nam Việt Nam bị mắng chửi là “tàn nhẫn hệt như bọn Pháp”, kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Sài Gòn.[149]

James M. Carter, giáo sư Đại học Drew nhận xét trong sách “Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968” (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2008) như sau[150]:

Chính thể Sài Gòn không thể tự nuôi nổi chính mình; thậm chí không thu đủ lợi tức cho hoạt động hàng ngày. Họ phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ… Từ trước đó, giới chức Mỹ đã thôi nói về xây dựng quốc gia, cải cách ruộng đất, dân chủ, minh bạch. Thay vào đó, họ bàn về một cuộc chiến phải thắng trước những kẻ thù của nhà nước hư cấu “miền Nam Việt Nam” (fictive state).

Quỹ đạo này của chính sách Mỹ khiến người ta gần như không thể nói thực về thành công, thất bại, đặc biệt là với các nhà hoạch định chính sách. Chưa bao giờ Hoa Kỳ đạt tới mục tiêu là chính thể Sài Gòn có thể tự mình tồn tại mà không cần dựa vào viện trợ Mỹ.

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Quốc gia Việt Nam là tên được Open trong miền Nam lần tiên phong

Chú thích

Tham khảo

  • Bùi Diễm. Gọng Kìm Lịch sử. Paris: Phạm Xuân Khai, 2000.
  • Choinski, Walter Frank. Country Study: Republic of Vietnam. Washington, DC: The Military Assistance Institute, 1965.
  • Larsen, Stanley et al. Allied Participation in Vietnam. Washington, DC: Department of the Army, 1975.
  • Lê Xuân Khoa. Việt Nam 1945-1995, Tập I. Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004.
  • Ministry of Foreign Affairs. Vietnamese Realities. Saigon: Ministry of Foreign Affairs of the Republic of Vietnam, 1967.
  • Nguyen Ngoc Bich, et al. An Annotated Atlas of the Republic of Viet-Nam. Washington, DC: Embassy of Viet-Nam, 1972.
  • Nguyễn Phương-Khanh. Vietnamese Legal Materials 1954-1975, A Selected Annotated Bibliography. Washington, DC: Library of Congress, 1977.
  • Nguyễn Văn Lục. Lịch sử Còn Đó. Garden Grove, CA: Tân Văn, 2008.
  • Penniman, Howard R. Elections in South Vietnam. Stanford, CA: Hoover Institution on War, Revolution and Peace at Stanford University, 1972.
  • Sales, Jeanne M. Guide to Vietnam. Sài Gòn: American Women’s Association of Saigon, 1974.
  • Smith, Harvey et al. Area Handbook of South Vietnam. Washington, DC: US Government Printing Office, 1967.
  • Trương Đình Bạch Hồng. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Cộng hòa và Cambodge trong giai đoạn 1954-1970. Charleston, SC: Hồng Trương Books, 2014.
  • Wiest, Andrew A. The Vietnam War, 1956-1975. Oxford, UK: Osprey Publishing, 2002

Đọc thêm

Liên kết ngoài

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories