Việt Minh – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên chính thức trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương)[2][3][4] còn gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội,[5] gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị cánh tả mang danh nghĩa dân tộc chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích công khai là “liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật – Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.[6]

Do Việt Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam xem là một cái hình thức mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam nên còn được gọi là Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, Mặt trận Việt Minh.[7][8][9] Mặt trận dân tộc thống nhất là mặt trận thống nhất do các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái quốc nội kết thành nhằm tiến hành cách mạng dân tộc, chống lại sự xâm lược và áp bức của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.[10]

Trước đó, đã có một tổ chức chính trị chống đế quốc của người Việt Nam ở nước ngoài có tên gọi tương tự là Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, được thành lập năm 1936 ở Nam Kinh (Trung Quốc).[11][cần số trang] Theo Hoàng Văn Hoan, Hồ Chí Minh chủ trương lấy danh nghĩa hội này và mời Hồ Học Lãm làm chủ trì để dựa vào mà hoạt động.[12]

Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “giải tán”, Việt Minh là tổ chức chính trị tham gia bầu cử và nắm chính quyền, là thành viên của Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt), sau lại tách ra. Đầu năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương tái lập với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Việt Minh sáp nhập với Hội Liên Việt để thành Mặt trận Liên Việt, nhưng nhiều người vẫn quen gọi là Việt Minh.

Trong cuộc chiến chống Pháp, Việt Minh là vũ khí chính trị hiệu suất cao do Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng nhằm mục đích lôi cuốn mọi những tầng lớp người dân, kể cả những người Quốc gia và không Cộng sản, tham gia chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đảng Cộng sản. [ 13 ] Bên cạnh đó, Việt Minh cũng từng xung đột với những nhóm chính trị, xã hội khác như Nước Ta Quốc dân Đảng, Nước Ta Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đệ Tứ Quốc tế Cộng sản và những nhóm tôn giáo. [ 14 ] [ 15 ]

Thành lập

Tháng 10 năm 1940, tại Quế Lâm, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Nước Ta Độc lập Vận động Đồng minh Hội ( trước có tên là Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, do Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và 1 số ít chính trị gia khác xây dựng năm 1936 ), đã mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để những đảng viên cộng sản Nước Ta tại Trung Quốc có danh nghĩa hợp pháp để hoạt động giải trí tại Trung Quốc. Chủ trương này xuất phát từ chỗ Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương ( xây dựng năm 1939, là tiền thân của Việt Minh sau này ) là một tổ chức triển khai không phải là cộng sản và người sáng lập của tổ chức triển khai này là Hồ Học Lãm có quan hệ tốt với Nguyễn Ái Quốc. [ 12 ] Những đảng viên cộng sản Việt Nam trình làng với Lý Tề Thâm, Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam Trung Hoa Quốc dân Đảng, rằng Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương là tổ chức triển khai chính trị lớn bên cạnh Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương có ảnh hưởng tác động trong giai cấp công nhân thành thị còn Mặt trận Phản đế hoạt động giải trí hầu hết trong những những tầng lớp trên ở nông thôn. [ 12 ] Người đồng sáng lập Nước Ta Độc lập Vận động Đồng minh Hội là Nguyễn Hải Thần tuy không chấp thuận đồng ý với việc Đảng Cộng sản Đông Dương sử dụng danh nghĩa Mặt trận Phản đế để hoạt động giải trí vẫn hợp tác với Đảng Cộng sản. [ 12 ]Trước tình hình Chiến tranh Thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và ác liệt, đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định hành động về nước. Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng của Đảng Cộng sản Đông Dương, họp vào cuối tháng 4 năm 1941, dưới sự chủ tọa của Hoàng Văn Thụ và Vũ Anh, đã khẳng định chắc chắn công tác làm việc thiết kế xây dựng thử nghiệm những đoàn thể cứu quốc đạt tác dụng tốt, chứng tỏ chủ trương hoạt động giải trí trên danh nghĩa Việt Minh của Nguyễn Ái Quốc là trọn vẹn đúng đắn .

Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị đã xác định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng[16] và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia.[17] Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, được đề ra từ Hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939, là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.[18] Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (thành lập theo Quyết nghị của Hội nghị Trung ương VI – khóa I, tháng 11 năm 1939).[1]

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ VIII bế mạc, một đại hội ( ngày 19-5-1941 ) gồm đại diện thay mặt đảng Cộng sản và những tổ chức triển khai quần chúng xây dựng chính thức Việt Minh .Ngoài Đảng Cộng sản, trong thời hạn đầu có những tổ chức triển khai tham gia lần lượt gồm Đảng Cách mệnh An Nam, Nước Ta Quốc dân Cách mệnh Đảng, Đảng Quốc gia Cách mệnh An Nam, Phục quốc Hội, Nước Ta Độc lập Vận động Đồng minh Hội, Đảng Đại Việt Quốc xã, Đảng Hưng Việt, Đảng Đại Việt, Việt Cách … [ 19 ] Sau khi nhà nước Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tan rã, 1 số ít đảng phái liên tục hợp tác với Việt Minh, một số ít khác thì tách khỏi Việt Minh và ủng hộ Bảo Đại xây dựng Quốc gia Nước Ta chống lại Việt Minh còn Việt Minh gọi những đảng phái này là Việt gian, phản động .

Theo báo Cứu quốc “nhà đại ái quốc Hồ Chí Minh, ròng rã ba mươi năm nay bị mật thám thuộc địa truy nã, từ trong bóng tối nhảy ra, có một nhãn quan chính trị hết sức minh mẫn, ông đề nghị với người Pháp ở Đông Dương lập một mặt trận chung chống phát xít. Việt Minh, hay là mặt trận chung chống phát xít dành độc lập, ra đời” nhưng chính quyền thuộc địa về phe phát xít.[20]

Cương lĩnh

Chương trình Việt Minh

Tháng 9 năm 1941, văn kiện Chương trình Việt Minh kèm theo điều lệ của một số hội cứu quốc đã được soạn thảo, coi như phụ lục của Nghị quyết hội nghị tháng 5 năm 1941. Ngày 25 tháng 10, Tổng bộ Việt Minh chính thức Chương trình Việt Minh để phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Văn kiện này nhấn mạnh tới những mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc:[21]

  1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
  2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do.

Chương trình của Việt Minh được Nguyễn Ái Quốc soạn thành một bài thơ dài theo thể song thất lục bát gồm 212 câu và được Bộ Tuyên truyền Việt Minh xuất bản. Tháng 8 năm 1942, Tòa soạn báo Việt Nam độc lập phát hành cuốn Ngũ tự kinh (kinh 5 chữ) dùng văn vần để phổ biến chương trình của Việt Minh.[21] Ngày 15 tháng 3 năm 1944, Bộ Tuyên truyền Cổ động Việt Minh cho in một tập sách bao gồm: Tuyên ngôn, Chương trình (đã được bổ sung) và Điều lệ của Mặt trận Việt Minh.[22]

Chủ trương đơn cử : – Chủ trương liên hiệp hết thảy những từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, khuynh hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp – Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Nước Ta Độc lập Đồng minh lại còn rất là trợ giúp Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng xây dựng Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc bản địa phản đế toàn Đông Dương để đánh được quân địch chung giành quyền độc lập cho nước nhà. – Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ xây dựng một chính phủ nước nhà nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao 5 cánh vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn nước. nhà nước ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những trách nhiệm như sau :

Chính trị
  1. Phổ thông đầu phiếu vô luận nam nữ hễ ai từ 18 tuổi trở lên được quyền bầu cử, ứng cử.
  2. Ban hành các quyền tự do dân chủ như: tự do xuất bản, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong xứ và xuất dương.
  3. Tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang dân chúng để thẳng tay trừng trị bọn Việt gian phản quốc, giữ vững chính quyền cách mạng.
  4. Tịch thu tài sản của đế quốc Pháp, Nhật và bọn Việt gian phản quốc.
  5. Toàn xá chính trị phạm và thường phạm.
  6. Nam nữ bình quyền.
  7. Tuyên bố các dân tộc được quyền tự quyết.
  8. Liên lạc mật thiết với các dân tộc thiểu số và nhất là Tàu, Ấn Độ, Cao Ly.
Kinh tế
  1. Bỏ thuế thân và các thuế do Pháp, Nhật đặt ra, lập một thứ thuế rất nhẹ và công bằng.
  2. Quốc hữu hóa ngân hàng của đế quốc Pháp, Nhật, lập nên quốc gia ngân hàng thống nhất.
  3. Mở mang kỹ nghệ, giúp đỡ thủ công nghiệp làm cho nền kinh tế quốc gia được phát triển.
  4. Dẫn thủy nhập điền, bồi đắp đê điều làm cho nền nông nghiệp được phồn thịnh.
  5. Cho dân chúng tự do khai khẩn đất hoang có chính phủ giúp đỡ.
  6. Quan thuế độc lập.
  7. Mở các đường giao thông như đường sá, cầu cống…
Vǎn hóa
  1. Hủy bỏ giáo dục nô lệ, lập nền quốc dân giáo dục, cưỡng bức giáo dục đến bực sơ đẳng, cho các dân tộc được quyền dùng tiếng mẹ đẻ mình, phổ thông trong việc giáo dục mình.
  2. Lập các trường chuyên môn quân sự, chính trị, kỹ thuật để đào tạo các lớp nhân tài.
  3. Giúp đỡ và khuyến khích các hạng trí thức để họ được phát triển tài nǎng của họ.
Xã hội
  1. Thi hành ngày làm tám giờ.
  2. Giúp đỡ cho gia đình đông con.
  3. Lập ấu trĩ viện để chǎm nom trẻ con.
  4. Lập nhà diễn kịch, chớp bóng, câu lạc bộ để nâng cao trình độ tri thức của nhân dân.
  5. Lập nhà thương, nhà đẻ cho nhân dân.
Ngoại giao
  1. Hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký bất kỳ với nước nào.
  2. Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hòa bình.
  3. Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền lợi của nước Việt Nam.
  4. Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới.
Đối với các lớp nhân dân
  1. Công nhân: Ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, công việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. Cứu tế thất nghiệp xã hội, bảo hiểm, cấm đánh dập, chửi mắng thợ, thủ tiêu giấy giao kèo giữa chủ và thợ, công nhân già có lương hưu trí.
  2. Nông dân ai cũng có ruộng đất để cày cấy, giảm địa tô, cứu tế nông dân trong những nǎm mất mùa.
  3. Binh nhân: Hậu đãi những người có công giữ gìn Tổ quốc phụ cấp cho gia đình họ được đầy đủ.
  4. Học sinh: Bỏ học phí, bỏ giấy khai sinh, hạn tuổi, giúp đỡ học sinh nghèo.
  5. Phụ nữ: Đàn bà được bình đẳng với đàn ông về mọi phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, vǎn hóa.
  6. Thương nhân: Bỏ ba tǎng môn bài và các thứ thuế khác do Pháp đặt ra.
  7. Viên chức: Hậu đãi cho xứng đáng với công học tập.
  8. Những người già và tàn tật được chính phủ chǎm nom cấp dưỡng.
  9. Nhi đồng được chính phủ chǎm nom về trí dục và thể dục.
  10. Đối với Hoa kiều được chính phủ bảo đảm tài sản và coi như tối huệ quốc.

Tổ chức

Việt Minh cũng công bố luôn Tuyên ngônĐiều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình: “Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.[23] Tôn chỉ đó đã quy định điều kiện gia nhập Việt Minh: “Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh”.[24]

Về tổ chức, Mặt trận có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Về hệ thống tổ chức, ở các xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kì có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy; Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ.[18] Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc,…) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội Cứu tế Thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,…[25] Chỉ thị về công tác của Ban Chấp hành Trung ương ngày 1 tháng 12 năm 1941 đã chỉ rõ: “Cần phải chú ý không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, vì Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng phải rộng rãi, nhẹ nhàng”.[26] Tổng bộ Việt Minh, theo một tài liệu của Mỹ, từ tháng 6/1945 đến giữa năm 1946 có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh và Hồ Tùng Mậu.

Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Đông Dương

Trong quan hệ với Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: “Đảng ta cũng là một bộ phận trong mặt trận phản đế Đông Dương, bộ phận trung kiên và lãnh đạo”,[27] là “một bộ phận linh động nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật-Pháp”.[28]

Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán khi Pháp, Trung Hoa Dân quốc và các đồng minh của họ muốn tiêu diệt Đảng, đi vào hoạt động bí mật và thành lập tổ chức công khai của Đảng là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương[29] đồng thời đóng cửa tờ báo Cờ giải phóng.[30]

Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11-11-1945:

1- Cǎn cứ vào điều kiện lịch sử, tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước, nhận rằng lúc này chính là cơ hội nghìn nǎm có một cho nước Việt Nam giành quyền hoàn toàn độc lập;

2- Xét rằng: muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu;

3- Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc;

4- Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 11 tháng 11 nǎm 1945, nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương.

Những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”

Sau khi Đảng Cộng sản công bố tự giải tán, hầu hết đảng viên cộng sản chuyển sang hoạt động giải trí bí hiểm và trên danh nghĩa Việt Minh ; 1 số ít ít tham gia Hội nghiên cứu và điều tra Chủ nghĩa Marx ở Đông Dương để hoạt động giải trí công khai minh bạch. Các chỉ huy Đảng cộng sản tham gia Quốc hội và nhà nước như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu … cũng với tư cách là thành viên Việt Minh. Hội điều tra và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương cũng là một tổ chức triển khai thành viên của Việt Minh .

Tuy nhiên Việt Minh không chỉ có tổ chức thành viên là Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể cứu quốc mà còn có các đảng phái cách mạng theo đường lối khác. Năm 1941 Đại hội thành lập Việt Minh thiết lập liên minh chống phát xít của người Việt ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương, có Tân Việt Nam đảng (Tân Việt đảng), Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, một phần Việt Nam Quốc dân Đảng, một số hội giải phóng dân tộc… góp phần vào việc nâng cao uy tín Mặt trận. Một trong những biểu hiện rõ nét là vào năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương Văn hóa Việt Nam”, tập hợp đông đảo những nhà văn hóa, văn nghệ, trí thức. Trên cơ sở đó, cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, trở thành một thành viên của Mặt trận Việt Minh.[31] Tháng 6 năm 1944, Đảng Cộng sản Đông Dương giúp cho một số trí thức thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam gia nhập Việt Minh một thời gian ngắn rồi tách ra do mâu thuẫn với Đảng Cộng sản Đông Dương.[32][cần số trang] Tháng 12 năm 1946, đảng Dân chủ Việt Nam lại gia nhập Việt Minh.

Đảng Cộng sản Đông Dương còn lan rộng ra Mặt trận Việt Minh trong việc liên lạc với một số ít người cộng sản và cánh tả thuộc Đảng Xã hội Pháp trong quân đội Lê dương và giới công chức Pháp ở Nước Ta. Nhưng do quan điểm khác nhau nên kế hoạch lập Hội của Đảng thất bại. Đảng còn tranh thủ sự giúp sức của những lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc, hoạt động xây dựng Mặt trận Trung-Việt liên minh, đặt quan hệ hợp tác với Nước Ta Cách mệnh Đồng minh Hội ( và một thời hạn nhập vào tổ chức triển khai này trên danh nghĩa ) – một tổ chức triển khai chính trị của người Nước Ta ở Trung Quốc để tranh thủ đoàn kết thoáng đãng với những người Việt yêu nước hoạt động giải trí ở Trung Quốc. [ 33 ] Ở Nam Kì, những cán bộ Đảng trong khi tập hợp lực lượng đã hoạt động được nhiều đảng phái khác tham gia Việt Minh. Kì bộ Việt Minh Nam Kì gồm có Đảng Cộng sản Đông Dương, Tân Dân chủ, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, Nước Ta Quốc gia, Cao Đài hợp nhất, Nước Ta Cứu quốc Đoàn ( Kì bộ cũ của Việt Minh ), Quốc gia Độc lập, Công giáo, Thanh niên Nghĩa dũng Đoàn. [ 34 ]Vào cuối năm 1944, Việt Minh công bố tổng số thành viên là 500.000 người, trong đó có 200.000 người ở Bắc Kỳ, 150.000 người ở Trung Kỳ, và 150.000 người tại Nam Kỳ .Trong suốt quy trình hoạt động cách mạng từ Hội nghị 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến Cách mạng Tháng Tám, những chủ trương nghị quyết của Đảng nhằm mục đích thiết kế xây dựng lực lượng cách mạng đều được không cho trong những văn kiện của Mặt trận Việt Minh. [ 35 ]Về trong thực tiễn Đảng Cộng sản Đông Dương còn chỉ huy chi bộ đảng ngoài Nước Ta, như Lào, Miên, và sau khi tách những chi bộ này ra, để xây dựng ba đảng riêng năm 1951, cùng với xây dựng Liên Việt trên cơ sở hai tổ chức triển khai Việt Minh và Liên Việt, cũng xây dựng Mặt trận liên minh Việt – Miên – Lào ( do Tôn Đức Thắng làm quản trị ) nhằm mục đích phối hợp cách mạng ba nước, tiến tới giành độc lập cho mỗi nước .

Hợp tác với cơ quan tình báo Mỹ OSS

Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Mỹ Chennault tại Côn Minh ( Trung Quốc ). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng chuẩn bị trợ giúp những gì hoàn toàn có thể theo nhu yếu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định chắc chắn quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật. Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là vật chứng cho những đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được tác dụng. [ 36 ]

Lãnh đạo Việt Minh và OSS năm 1945 .Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng những tổ chức triển khai cách mạng người Việt vào những hoạt động giải trí quân sự chiến lược chống Nhật tại Nước Ta, ông đã thiết lập mối quan hệ với những cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời thông tư cho Việt Minh làm tổng thể để giải cứu những phi công gặp nạn trong cuộc chiến tranh với Nhật Bản, cung ứng những tin tức tình báo cho OSS ( Cơ quan Tình báo kế hoạch Hoa Kỳ ), triển khai một số ít hoạt động giải trí tuyên truyền cho Trung Hoa Dân quốc và OWI. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS ( U.S Office of Strategic Services ) phân phối vũ khí, phương tiện đi lại liên lạc, trợ giúp y tế, cố vấn và huấn luyện và đào tạo quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh. [ 37 ]

Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu tá Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm Con Nai đã huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm Con Nai cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[38]

Thông qua mối quan hệ với OSS, Việt Minh đề xuất Mỹ biến Đông Dương thành một xứ bảo lãnh của Mỹ và nhu yếu Mỹ can thiệp với Liên Hiệp Quốc để gạt người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng tại Đông Dương của Đồng Minh. Việt Minh sợ hãi Trung Quốc sẽ trở thành những kẻ chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng cướp bóc và tước đoạt. Tổng bộ Việt Minh ở Thành Phố Hà Nội gửi một công hàm cho nhà nước Mỹ để lý giải lập trường của họ. [ 39 ] Trong đó có đoạn viết :

“Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác”.[39]

Tổng bộ Việt Minh muốn báo cho nhà nước Mỹ biết nhân dân Đông Dương nhu yếu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ sẽ trợ giúp họ giành lại độc lập bằng những cách sau đây : [ 39 ]

  1. Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở lại chiếm Đông Dương bằng vũ lực.
  2. Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt.
  3. Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông Dương khai thác các nguồn tài nguyên đất đai.
  4. Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả năng cung ứng.

Hồ Chí Minh nỗ lực thuyết phục Mỹ liên tục chủ trương chống thực dân của Mỹ so với Đông Dương. Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia – Xã hội mong ước giải thoát quốc gia khỏi ách đô hộ của ngoại bang. [ 40 ] Thông qua OSS, quản trị Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Tổng thống Mỹ Truman nhu yếu Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với nhà nước Lâm thời đồng thời Mỹ và nhà nước Lâm thời sẽ có đại diện thay mặt trong Ủy ban Liên tịch những nước Đồng Minh giải quyết những yếu tố tương quan đến Nước Ta. Việt Minh kỳ vọng tranh thủ được sự xuất hiện của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương vì hai nước này hoàn toàn có thể làm nguy cơ tiềm ẩn đến nền độc lập và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Nước Ta đồng thời khuyến khích những nước Đồng Minh công nhận nhà nước Lâm thời là đại diện thay mặt duy nhất và hợp pháp của Nước Ta trong những yếu tố tương quan đến chủ quyền lãnh thổ của Nước Ta. Việt Minh quan ngại việc không được những nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị chỉ huy của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc xây dựng chính phủ nước nhà của những lực lượng này. [ 41 ] Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia xây dựng Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá thể và tổ chức triển khai duy nhất chăm sóc đến yếu tố thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức triển khai này cũng không có hành vi gì vì nền độc lập của những dân tộc bản địa thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin yêu vào sự trợ giúp của Mỹ trước khi hoàn toàn có thể kỳ vọng vào sự trợ giúp của Liên Xô. Người Mỹ xem ông là một người quốc tế cộng sản, bù nhìn của Moskva vì ông đã ở Moskva nhiều năm nhưng ông không phải là người cộng sản theo nghĩa Mỹ hiểu mà là nhà cách mạng hoạt động giải trí độc lập. [ 42 ] Tuy nhiên Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút toàn bộ những nhân viên cấp dưới tình báo tại Nước Ta về nước, chấm hết liên hệ với chính phủ nước nhà Hồ Chí Minh. [ 43 ]

Lãnh đạo nhân dân giành chính quyền sở tại

Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, kể từ khi Việt Minh ra đời, “toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp-Nhật của nhân dân ta mang tên Phong trào Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta”.[44]

Tổ chức này giành quyền và xây dựng chính quyền sở tại với tên Khu Giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh năm 1944. Năm 1945, khi Nhật vừa đầu hàng phe Đồng Minh và cơ quan chính phủ Trần Trọng Kim vừa xây dựng, Việt Minh là lực lượng chính trị quan trọng tổ chức triển khai một số ít cuộc biểu tình trên cả nước và công bố xây dựng chính quyền sở tại. Quốc dân Đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 đã trải qua lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định hành động Quốc kỳ, Quốc ca, cử ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc tức là nhà nước lâm thời do Hồ Chí Minh làm quản trị. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh công bố xây dựng nhà nước lâm thời của Việt Minh, khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa .Sau khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, Việt Minh chuyển tiềm năng sang đấu tranh giành lại toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ cho Nước Ta từ tay của thực dân Pháp .

Thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Thời gian đầu năm 1946, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan lui vào hoạt động bí mật. Hoạt động công khai với danh nghĩa là thành viên Việt Minh gồm có chủ tịch Hồ Chí Minh, các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam, Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Lương Bằng.[45][46] Về mặt công khai, trong một thời gian ngắn nhóm Mác-xít độc lập với Việt Minh. Thành viên Việt Minh không công khai là người Mác-xít. Theo các tài liệu chính thống của nhà nước Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng bộ một thời gian dài là Hoàng Quốc Việt. Cơ quan ngôn luận là báo Cứu quốc.

Việt Minh chỉ huy chính phủ nước nhà TW Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi được xây dựng cho đến khi cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc. Đảng Lao động chính thức xác nhận vai trò chỉ huy năm 1951. Một số ít thành viên Việt Minh chuyển sang ủng hộ cho Quốc gia Nước Ta khi Việt Minh ngả sang khuynh hướng thân Liên Xô – CHND Nước Trung Hoa công khai minh bạch. Tại miền Nam, Việt Minh cũng chỉ huy Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Các nhóm chính trị khác tham gia hợp tác với Việt Minh trong cơ quan chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở TW và địa phương trong quy trình tiến độ 1945 – 1946 .Ủy ban Dân tộc Giải phóng gồm 12 thành viên Việt Minh, trong đó có 6 thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương, 2 thành viên Đảng Dân chủ Nước Ta. Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ xây dựng ngày 25/8/1945 có 6 thành viên Việt Minh ( 4 là thành viên Đảng Cộng sản, gồm Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tây, 2 thành viên Việt Minh không công khai minh bạch là đảng viên cộng sản Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Đôn Văn ), 1 thành viên Đảng Dân chủ Nước Ta ( Huỳnh Văn Tiểng ), 2 thành viên không đảng phái ( Phạm Văn Bạch, Huỳnh Thị Oanh ), 1 thành viên Đảng Độc lập Dân tộc ( Ngô Tấn Nhơn ) ( sau cải tổ đưa Huỳnh Phú Sổ – Hòa Hảo, Trần Văn Thạch – Trotskyist, Huỳnh Văn Phương – tri thức, Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ … tham gia, nhưng sau một thời hạn Việt Minh xung đột với những nhóm tôn giáo và Trotskyist ). Ngày 10/9/1945, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ xây dựng, theo thể lệ của quản trị nhà nước Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh, gồm : Phạm Văn Bạch ( trạng sư, không đảng phái ) : quản trị, Trần Văn Giàu ( Giáo sư, Đảng Cộng sản Đông Dương ), Phạm Ngọc Thạch ( bác sĩ, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong ), Huỳnh Văn Tiểng ( cựu sinh viên, Tân Dân chủ đoàn ), Ngô Tấn Nhơn ( kỹ sư, Đảng Quốc gia Độc lập ), Nguyễn Văn Thọ ( viết báo, Đảng Cộng sản Đông Dương ), Hoàng Đôn Văn ( Lao động Tổng công đoàn ), Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ ( Nước Ta Độc lập Vận động hội ), Nguyễn Văn Nghiêm ( kỹ sư, không đảng phái ), Tứ Bảo Hòa ( điền chủ, không đảng phái ), dự khuyết Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ [ 47 ]nhà nước Cách mạng Lâm thời có 9 thành viên Việt Minh ( 6 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương ), 4 đảng viên Đảng Dân chủ Nước Ta, 2 không đảng phái, 1 Công giáo. nhà nước Liên hiệp Kháng chiến xây dựng ngày 2/3/1946 có 2 thành viên Việt Minh ( thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương ), 3 thành viên Việt Quốc, 1 thành viên Việt Cách, 2 thành viên Dân chủ, 1 thành viên Xã hội, 3 độc lập. nhà nước Liên hiệp Quốc dân xây dựng ngày 3/11/1946 có 5 thành viên Việt Minh ( thuộc Đảng Cộng sản ), 5 độc lập, 2 Dân chủ, 1 Xã hội, 1 Dân tộc ( Nước Ta Quốc dân Đảng – Chu Bá Phượng ), khuyết 2 ghế .nhà nước Liên hiệp Quốc dân năm 1949, 5 thành viên Đảng Cộng sản – Việt Minh, 5 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 3 đảng Xã hội, 1 dân tộc bản địa ( Nước Ta Quốc dân Đảng – Chu Bá Phượng ), 1 Nước Ta Cách mệnh Đồng minh Hội ( Bồ Xuân Luật ). Trong những thứ trưởng có 4 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 1 đảng Xã hội, 1 Việt Minh ( thuộc Đảng Cộng sản ), 1 trống. Theo tài liệu của CIA thì Đảng Cộng sản tuy công bố ” giải tán ” năm 1945 nhưng năm 1946 có 50.000 đảng viên, và tới 1950 có 400.000 đảng viên, dù trên danh nghĩa người của Việt Minh ( Liên Việt ), nhưng thực tiễn bán công khai .

Xung đột với những nhóm chính trị trái chiều

Truyền đơn của Việt Minh lôi kéo tiêu trừ Việt gian

Trước năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái Quốc gia khác tuy có ý thức hệ khác nhau nhưng vẫn có chung nền tảng giáo dục, thường xuyên có sự hợp tác và đôi khi có cùng quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Trong giai đoạn 1924 – 1927, ở miền Nam Trung Quốc, các nhóm người Việt chống thực dân Pháp đa dạng tương tác với nhau, với cả người Trung Quốc, Triều Tiên và các dân tộc khác. Từ năm 1941 đến 1944 ở miền nam Trung Quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) cùng tham gia vào mặt trận chống Nhật, đôi khi tố giác nhau với chính quyền Trung Quốc, nhưng không bắt cóc hoặc ám sát lẫn nhau. Chính sự cạnh tranh để kết nạp thành viên, thu nhận viện trợ cũng như sự bảo trợ của người Trung Quốc, hơn là sự khác biệt về ý thức hệ, mới là nguyên nhân khiến căng thẳng giữa các tổ chức lưu vong gia tăng. Trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng từng hợp tác với những người Trotskyist tại Nam Kỳ trong giai đoạn 1933-1937.[48] Hai bên sau đó chỉ trích nhau chẳng hạn thành viên của Quốc tế Thứ ba (Đảng Cộng sản Đông Dương) và Quốc tế Thứ tư (những người Trotskyist) cáo buộc lẫn nhau là phục vụ lợi ích đế quốc. Ban đầu cuộc tranh đấu chỉ trong phạm vi báo chí, truyền thông. Đến năm 1945 thì nhiều phe đã dùng vũ lực để tiêu diệt lẫn nhau. Quốc dân Đại hội Tân Trào do Việt Minh tổ chức ngày 16/8/1945, trước khi Việt Minh nắm chính quyền, xác định 10 chính sách lớn trong đó chính sách đầu tiên là “Phản đối xâm lược; Tiêu trừ Việt gian. Lập nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập“. Theo hồi ký của tướng Võ Nguyên Giáp, dù được Việt Minh trao nhiều ưu đãi (được nhường 70 ghế đại biểu Quốc hội mà không cần bầu cử, được giao một số chức vụ cao trong nhà nước) nhưng một số đảng phái như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt… vẫn không bằng lòng với địa vị chính trị của mình và đã tìm nhiều cách lật đổ Việt Minh nhằm chiếm chính quyền.[49] Theo sử gia David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy hận thù, phản bội và giết chóc. Cho tới tháng 8 năm 1946, các đảng phái đối lập, ngoại trừ Giáo hội Công giáo, đều bị phá vỡ, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong.[50]

Nước Ta Quốc dân Đảng

Ngay sau khi Việt Minh giành chính quyền sở tại ngày 19/8/1945, Lê Khang dẫn đầu một nhóm Việt Quốc rời TP. Hà Nội đến Vĩnh Yên nằm trên tuyến đường sắt Lào Cai – Thành Phố Hà Nội. Tại đây họ tổ chức triển khai một cuộc biểu tình của dân chúng để thuyết phục lực lượng Bảo an binh địa phương tham gia. Ngày 29/8/1945, hàng ngàn người ủng hộ Việt Minh thuộc 3 huyện lân cận tiếp cận địa thế căn cứ của Việt Quốc tại Vĩnh Yên lôi kéo Việt Quốc tham gia một cuộc diễu hành xuyên qua thị xã. Khi bị khước từ, họ bắn thành viên Việt Quốc. Việt Quốc bắn trả khiến một số ít người chết đồng thời bắt giữ khoảng chừng 150 người. Những người bị bắt được thả sau khi đã được tuyên truyền về Việt Quốc và thừa nhận mình bị lừa khi tham gia biểu tình. Sau đó, Việt Minh và Việt Quốc liên tục tranh luận về việc phóng thích những người còn bị Việt Quốc giam giữ, về việc tổ chức triển khai đàm phán và những yêu cầu tương quan đến việc xây dựng chính quyền sở tại liên hiệp ở địa phương. Trong khi hai bên đàm đạo, Việt Minh cắt đứt nguồn cung ứng lương thực cho thị xã Vĩnh Yên khiến đời sống ngày càng khó khăn vất vả. [ 51 ]Ngày 18/9/1945, Hoàng Văn Đức, một thành viên quan trọng của Đảng Dân chủ Nước Ta cùng đại diện thay mặt cơ quan chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ TP. Hà Nội đến Vĩnh Yên thương lượng. Cuộc thương lượng không thành công xuất sắc, Lê Khang tiến công Phúc Yên nhưng thất bại. Các đơn vị chức năng quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến công Vĩnh Yên nhưng không giành được thị xã này. Sau đó hai bên ngừng bắn trong vài tháng. Việt Quốc không tranh giành tác động ảnh hưởng với Việt Minh ở vùng nông thôn ngoài việc chiếm giữ nông trại Tam Lộng tại Vĩnh Yên. Đầu tháng 12/1945, Việt Minh tiến công Tam Lộng nhưng bị đẩy lùi. [ 52 ]Tháng 9/1945, Việt Quốc thỏa thuận hợp tác bí hiểm với Đại úy Nguyễn Duy Viên theo đó đại đội lính Khố đỏ của ông sẽ theo Việt Quốc. Tuy nhiên Việt Quốc hoài nghi Đại úy Viên là điệp viên hai mang của Pháp và sẽ điều động đơn vị chức năng của mình thủ tiêu đảng viên Việt Quốc ngay sau khi vượt biên giới về Nước Ta. Đầu tháng 11, Viên đến Hà Giang gặp những thành viên Việt Quốc tại đây. Những binh sĩ đào ngũ từ những đơn vị chức năng lính thuộc địa cũng đổ về Hà Giang giúp Viên có được một đội quân khoảng chừng 400 người. Việt Quốc và Việt Minh tại Hà Giang xích míc nhau khiến Viên đến TP. Hà Nội nhu yếu chính phủ nước nhà cử đại diện thay mặt đến thuyết phục mọi người cùng chống Pháp. Sau khi gặp Hồ Chí Minh, Viên trở lại Hà Giang, cho quân bắt giữ những đảng viên Việt Quốc tại đây và xử bắn một số ít người trên một ngọn đồi gần thị xã. Tháng 4/1946, Việt Quốc cho người ám sát Viên tại TP. Hà Nội. [ 53 ]Tháng 5/1946, Trần Đăng Ninh, đảm nhiệm bảo mật an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đến Vĩnh Yên với nguyên do luận bàn về công tác làm việc thay thế sửa chữa đê điều và bị Vũ Hồng Khanh bắt. Ninh và 2 người khác trốn thoát. Việc bắt giữ này trở thành nguyên do để đàn áp Việt Quốc. Vệ quốc quân khởi đầu tuần tra quanh nơi hoạt động giải trí của Việt Quốc. Ngày 20/5/1946, trong một cuộc đụng độ gần Phú Thọ, Việt Quốc bắt giữ và hành quyết một nhóm người ủng hộ Việt Minh, thả vài xác chết xuống sông Hồng để cảnh cáo. [ 54 ]Giữa tháng 5/1946, Bộ Nội vụ ra lệnh cho toàn bộ những cán bộ công chức đang thao tác tại 7 thị xã ở những tỉnh phía Tây và Tây Bắc TP. Hà Nội sơ tán và tham gia vào những Ủy ban thay thế sửa chữa được xây dựng ở những khu vực mới. Những người không triển khai lệnh này không còn là người của cơ quan chính phủ. [ 54 ]Tháng 6/1946, khi quân đội Trung Quốc rút về Vân Nam, dân quân của Việt Minh cô lập những thị xã do Việt Quốc trấn áp. Ngày 18/6/1946, Vệ quốc quân tiến công Phú Thọ và Việt Trì. Quốc dân quân của Việt Quốc ở Phú Thọ hết đạn sau 4 ngày và phải rút lui. Vũ Hồng Khanh chỉ huy 350 lính phòng thủ Việt Trì trong 9 ngày rồi rút lui về Yên Bái. Việt Quốc ở Vĩnh Yên do Đỗ Đình Đạo chỉ huy đàm phán với Việt Minh và đạt được thỏa thuận hợp tác ngừng bắn trong 2 tháng. Đỗ Đình Đạo đồng ý chấp thuận sáp nhập lực lượng của ông vào Vệ quốc quân và xây dựng Ủy ban Hành chính liên hiệp tại Vĩnh Yên. Lực lượng này được chia nhỏ đưa về những tiểu đoàn Vệ quốc quân tại nhiều nơi. Đỗ Đình Đạo được thuyên chuyển về TP.HN. Trong suốt tháng 5 và tháng 6/1946, Báo Nước Ta của Việt Quốc tại TP. Hà Nội khẩn thiết lôi kéo Việt Minh ngừng tiến công Việt Quốc. [ 54 ]Cuối tháng 6 tại Thành Phố Hà Nội, những thành viên Việt Quốc họp để bàn luận về việc có nên thừa nhận sự chỉ huy của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ chức triển khai thay máu chính quyền lật đổ chính phủ nước nhà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là liên minh của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc thay máu chính quyền hoàn toàn có thể mở màn bằng việc tiến công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có dự tính diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp ( 14/7/1789 ) khiến lực lượng bảo mật an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quan ngại sự kiện này hoàn toàn có thể trở thành tiềm năng của những đảng phái trái chiều với Việt Minh. Võ Nguyên Giáp hỏi quan điểm của chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ, Đại tá Jean Crépin, về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách thì được ông này vấn đáp Pháp sẽ không can thiệp vào việc làm nội bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. [ 55 ] Trường Chinh ( Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động giải trí bí hiểm, chức vụ công khai minh bạch là Hội trưởng Hội điều tra và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ) được Nha Công an Trung ương báo cáo giải trình phát hiện được thủ đoạn của thực dân Pháp câu kết với Nước Ta Quốc dân Đảng đang sẵn sàng chuẩn bị thay máu chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ huy phải tập trung chuyên sâu trấn áp Nước Ta Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ .

Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế “đại biểu đương nhiên” (không phải qua bầu cử) trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên chủ chốt tham gia lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch Quốc hội), Trương Đình Chi (Bộ trưởng Xã hội, Y tế và Lao động). Theo hồi ký Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do không bằng lòng với vị trí có được, Việt Nam Quốc dân Đảng tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt… chiếm chính quyền.[49]

Trong khi giải giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16 theo Hiệp ước Hoa – Pháp tháng 2 năm 1946 và Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, quân Pháp đã chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân Đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số vũ khí này và được thực dân Pháp “bật đèn xanh”, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang mang tên “Thần lôi đoàn”, “Thiết huyết đoàn”, “Hùm xám”… Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người không đảng phái như ông Ba Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà Nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[56]

Đầu tháng 6 năm 1946, Nước Ta Quốc dân Đảng tổ chức triển khai cho Nghiêm Xuân Chi ( đảng viên Việt Quốc ) ám sát một số ít chỉ huy của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được sắp xếp tại Nhà Thủy tọa, cạnh Hồ Hoàn Kiếm, đối lập với nhà số 8 đường Vua Lê ( nay là phố Lê Thái Tổ ), một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay thì đã bị tổ thám thính của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế. Khám người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đã lên nòng. Tại trụ sở Công an Bắc bộ ( số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần Hưng Đạo ), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đã được những lãnh tụ Nước Ta Quốc dân Đảng giao nhiệm ám sát 1 số ít chỉ huy Việt Minh. [ 57 ]Trước những hoạt động giải trí gây mất trật tự bảo mật an ninh tại TP.HN và một số ít thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai minh bạch là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu. [ 56 ]Sau khi Nước Ta Công an vụ xin quan điểm chỉ huy của Trường Chinh ( Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, với chức vụ công khai minh bạch là Hội trưởng Hội điều tra và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ), vào rạng sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, Đội Trinh sát đặc biệt quan trọng đã thực thi trách nhiệm bắt, khám xét những người xuất hiện tại số 7 phố Ôn Như Hầu vì can tội tống tiền và bắt cóc người, đã triển khai phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là Lê Giản ( Giám đốc Nha Công an Bắc bộ ), Nguyễn Tuấn Thức ( Giám đốc Công an Thành Phố Hà Nội ) và Nguyễn Tạo ( Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương ). [ 58 ] Lực lượng công an xung phong đã triển khai khám xét những trụ sở Nước Ta Quốc dân Đảng tại Thành Phố Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Nước Ta Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó … Trong số những thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt, có Phan Kích Nam tự xưng là một chỉ huy của Quốc dân Đảng. Theo tìm hiểu của Nha công an, Nước Ta Quốc dân Đảng đang sẵn sàng chuẩn bị những hành vi khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định những thành viên của Nước Ta Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày Quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và nhà nước, gây sự phá hoại tự do rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền sở tại và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp. [ 59 ]Trên trong thực tiễn, trong cuộc vây bắt, khám xét tại số 7 – Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5 súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ sở hành chính của Nước Ta Quốc dân Đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu ( nay là phố Nguyễn Gia Thiều ) chỉ là bình phong để che đậy hai địa thế căn cứ quan trọng hơn của Nước Ta Quốc dân Đảng trong nội thành của thành phố TP. Hà Nội khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau ( nay là phố Bùi Thị Xuân ) và nhà số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 – Duvigneau và 80 Quán Thánh diễn ra cùng thời gian với vụ bắt, khám xét ở số 7 – Ôn Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với những ” bát chữ ” còn nguyên vẹn nội dung ; 11 mặt đá in lito đã khắc chữ ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu hiệu ; tài liệu chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa in xong còn chưa kịp chuyển đi ; 18,6 kg tiền giả ( gồm cả giấy bạc Quan kim và giấy bạc Đông Dương ) ; 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17 súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21 súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn những loại, hai thùng tài liệu, truyền đơn chống cơ quan chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân Pháp tại TP.HN đã điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đã triển khai đàm phán trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh. [ 60 ]

Ngày 13 tháng 7, tướng Morlière, Tư lệnh các Lực lượng Pháp tại Hà Nội đã cử sĩ quan tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Bộ Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn. Tại đây, viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật, truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn người… mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc mít tinh diễu hành này.[57]

Nhà nước sau đó thông tin vấn đề với báo chí truyền thông. Các cuộc tiến công được gọi tắt là ” Vụ án phố Ôn Như Hầu “. Các báo của Việt Minh và những đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đã phá vỡ thủ đoạn chống cơ quan chính phủ, đã bắt những kẻ triển khai những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống cơ quan chính phủ, làm bạc giả … Tuy nhiên Việt Quốc đã không bị kể tên trong một số ít bài báo. [ 55 ]

Theo David G. Marr, nếu thật sự Pháp muốn đảo chính (họ đã cân nhắc và hoãn nhiều lần) thì không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ngòi, càng không cho Anh thành lập chính phủ. Công an cố tình lập lờ giữa Đại Việt Quốc dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Tưởng Tam và Vũ Hồng Khanh lãnh đạo khi nhắm vào tòa soạn Báo Việt Nam và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn công, có người trong chính quyền đã cố gắng hạn chế những lời lên án công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc. Việt Quốc đồng nghĩa với tội phản quốc.[55]

Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông tin đến những tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị tìm hiểu và truy tố. Ủy ban hướng dẫn những địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ những thành phần phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận đồng ý cho việc bắt giữ những đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến những trại tái tạo ; hàng trăm người khác bị không bổ nhiệm. Cán bộ phòng chính trị thuộc Sở Công an những tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó báo cáo giải trình lên chính quyền sở tại tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này. [ 55 ] Từ cuối tháng 7/1946 cho đến cuối năm 1946, hầu hết những người bị công an giam giữ vì nguyên do chính trị đều bị xem là Việt Quốc. Công an liên tục thẩm vấn những đảng viên Việt Quốc về vụ bắt cóc 1 số ít đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương xảy ra vào cuối năm 1945. [ 61 ]Cuối tháng 7/1946, Báo Nước Ta bị đình bản nhưng Tuần báo Chính Nghĩa vẫn liên tục xuất bản suốt 3 tháng sau. Báo chính Nghĩa đăng một loạt bài xã luận lên án chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc Xô Viết đồng thời chỉ trích mạng lưới hệ thống Ủy ban Hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và việc chính phủ nước nhà không hề xây dựng mạng lưới hệ thống tư pháp độc lập, chủ trương ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng bị thiếu tín nhiệm. Cuối tháng 10/1946, những bài xã luận và tin tức trong nước bị vô hiệu. Tới đầu tháng 12, Tuần báo Chính Nghĩa trọn vẹn bị vô hiệu, không còn một tin tức hay bài viết nào đáng phải kiểm duyệt nữa. [ 62 ]Từ tháng 7/1946 đến tháng 11/1946, nhiều Đại biểu Quốc hội là đảng viên Việt Quốc bị bắt. Đại biểu Phan Kích Nam, đảng viên Việt Quốc, bị bắt trong vụ án phố Ôn Như Hầu, bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và bị tống giam ngay lập tức. Đại biểu Nguyễn Đổng Lâm bị công an Thành Phố Hải Dương bắt và bị yêu cầu gửi đến trại biệt giam trong 2 năm với nguyên do ” chính quyền sở tại địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn vất vả nếu ông Lâm còn tự do ngoài vòng pháp lý “. Trường hợp của Lâm được báo cáo giải trình lên quản trị Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Văn Tố. Nguyễn Văn Tố cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh thả Lâm. Ngày 21/8/1946, Nguyễn Đổng Lâm được thả. Tại những địa phương khác, những Đại biểu Quốc hội là đảng viên Việt Quốc cũng bị sách nhiễu hoặc bắt giữ. Đại biểu Trình Như Tấu gửi kháng nghị đến 5 cơ quan chính phủ nước nhà khác nhau sau khi ông bị dân quân vây hãm nhà riêng để nhu yếu bồi thường một máy đánh chữ không có thật và rình rập đe dọa dùng vũ lực nếu ông không tuân thủ. Trình Như Tấu nhu yếu được bảo vệ với tư cách nghị sĩ nhưng không được trả lời. Tại Kỳ họp lần thứ hai của Quốc hội vào cuối tháng 10/1946, chưa tới 12 người trong số 50 Đại biểu Quốc hội thuộc Quốc dân Đảng tham gia. [ 63 ]Sau khi rút lui về Yên Bái, Vũ Hồng Khanh nhận ra rằng nguồn phân phối lương thực tại địa phương chỉ đủ nuôi sống lực lượng quân đội Việt Quốc chứ không đủ phân phối cho những người ủng hộ Việt Quốc từ đồng bằng sông Hồng đến. Việc tiếp tế từ Lào Cai gặp nhiều khó khăn vất vả vì Việt Minh đã tàn phá đường tàu. Tới tháng 11, Tỉnh Lào Cai bị Vệ quốc quân vây hãm và lương thực sắp hết. Vũ Hồng Khanh quyết định hành động sơ tán sang Vân Nam và ra lệnh hành quyết 2 giảng viên học viện chuyên nghành quân sự chiến lược vì cố gắng nỗ lực dẫn học viên của họ quay trở lại đồng bằng. Tháng 10/1947, khi Pháp nhảy dù trên không xuống Phú Thọ, công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị cáo buộc giết chết hơn 100 tù nhân Việt Quốc trước rủi ro tiềm ẩn họ hoàn toàn có thể trốn thoát hoặc rơi vào tay người Pháp. [ 61 ]

Đại Việt Quốc dân đảng

Sau khi giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc dân Đảng với lý do “Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam”.[64][65]

Do Chính phủ ban hành Sắc lệnh giải tán Đại Việt Quốc dân Đảng, nên các đảng viên Đại Việt đã mất tư cách pháp nhân để tham gia chính trường. Trước chiến thắng của Việt Minh trong cuộc Tổng tuyển cử, ngày 15 tháng 12 năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng cùng với Việt Nam Quốc dân Đảng (lãnh đạo là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân chính Đảng (lãnh đạo là Nguyễn Tường Tam) thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam nhằm chống lại “phe Cộng sản”. Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Việc tham gia Mặt trận Quốc dân Đảng giúp các đảng viên Đại Việt có lại khả năng tham chính dưới danh nghĩa của Mặt trận.

Đối với chương trình hành vi của Mặt trận Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm mục đích chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc hội và xây dựng nhà nước Liên hiệp :

  1. Phát động phong trào toàn dân bất hợp tác với Việt Minh.
  2. Tách rời cựu hoàng Bảo Đại ra khỏi Việt Minh và vô hiệu hóa Quốc hội Việt Minh.
  3. Thành lập một Trung tâm chính trị ở hải ngoại.
  4. Củng cố các chiến khu, tăng cường khối Quốc dân Quân, mở rộng địa bàn hoạt động.

Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, những tổ chức triển khai khác nhau của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Minh hoàn toàn có thể đã thủ tiêu hoặc bắt giữ hàng trăm đảng viên và những người có tương quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng tại những tỉnh Tỉnh Ninh Bình, Tuyên Quang, Tỉnh Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên … Trương Tử Anh lẩn trốn sự truy nã của công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời liên tục cảnh báo nhắc nhở Nước Ta Quốc dân Đảng không được liên minh với Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong suốt năm 1946, công an liên tục truy lùng những thành viên đảng Đại Việt. Theo David G. Marr, nhờ tuyên truyền có hiệu suất cao nên Việt Minh làm dân chúng tin rằng đảng viên Đại Việt là những tên tay sai cho phát xít Nhật dù trên thực tiễn trước ngày 9/3/1945 khi Nhật hòn đảo chính Pháp chỉ có một số ít ít người Việt có quan hệ với người Nhật, sau ngày 9/3/1945 toàn bộ những đảng phái ở Nước Ta kể cả Việt Minh đều tiếp xúc với quân đội và nhân viên cấp dưới dân sự Nhật. [ 66 ]Trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy [ 67 ] vây hãm khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện Đại Việt cấu kết với Pháp thủ đoạn triển khai thay máu chính quyền chính quyền sở tại cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946. [ 68 ] Khi thực thi cuộc vây hãm khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ đơn cử và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn triển khai vây hãm khám xét để những thành viên Đại Việt không có thời hạn rút vào bí hiểm và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền sở tại. Lực lượng công an đột kích giật mình vào lúc sáng sớm khiến cho lính canh và những đảng viên Đại Việt không kịp có hành vi phản ứng. [ 67 ] Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn. [ 68 ]Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ngày 19 tháng 12 năm 1946, thì Trương Tử Anh bất ngờ đột ngột mất tích. Có nguồn cho là ông bị Việt Minh thủ tiêu. [ 69 ]

Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng

Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng ( thường được gọi tắt là Đại Việt Quốc xã ) theo Chủ nghĩa Quốc xã do Nguyễn Xuân Tiếu sáng lập vào năm 1936, Trần Trọng Kim là Tổng bí thư. Đây là tổ chức triển khai chính trị thân Đế quốc Nhật Bản, được xây dựng để làm hậu thuẫn chính trị cho việc lập ra một Đế quốc Việt Nam, được xem là ” cơ quan chính phủ tay sai ” của Nhật Bản [ 70 ] trong thời kỳ Đế quốc Nhật chiếm đóng và thống trị Đông Á, Khu vực Đông Nam Á và Nước Ta trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Đại Việt Quốc xã là lực lượng có xu thế bảo hoàng với khoảng chừng 2 ngàn thành viên, tác động ảnh hưởng ở những thị thành công nghiệp nhẹ ở miền Bắc như Thành Phố Hà Nội, Hải Phòng Đất Cảng trong thời hạn Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra .

Sau khi Việt Minh giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng với lý do “Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam”.[64][65]

Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng

Trong thời hạn quân Tưởng vào miền Bắc, Đại Việt Duy dân tìm cách xâm nhập gây cơ sở ở Hòa Bình, kiến thiết xây dựng Hòa Bình thành địa thế căn cứ. Đại Việt Duy dân link với 1 số ít lang đạo chống chính quyền sở tại, lôi kéo 1 số ít lang đạo có thái độ hai mặt trong cỗ máy chính quyền sở tại những cấp và được số này che chở. Vì vậy, cơ sở Đại Việt Duy dân tăng trưởng khá nhanh gồm có một số ít huyện của tỉnh HĐ Hà Đông ( cũ ), Tỉnh Ninh Bình, Hà Nam, Hòa Bình. Đảng Đại Việt Duy dân chọn Mường Diềm làm địa thế căn cứ chính của Đại Việt Duy dân ở Hòa Bình. Được những lang đạo trợ giúp, Đại Việt Duy dân đã tích cực thiết kế xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách đưa thành viên từ miền xuôi lên, tập hợp thành viên ở địa phương, xây dựng được một số ít đơn vị chức năng, mở một vài lớp đào tạo và giảng dạy quân sự chiến lược …Giữa năm 1946, Đại Việt Duy dân bị chính quyền sở tại tiến công mạnh tại TP.HN và những tỉnh ở đồng bằng. Đảng trưởng Đại Việt Duy dân Lý Đông A ( tức Trần Khắc Tường ) phải rời Thành Phố Hà Nội về Gia Viễn ( Tỉnh Ninh Bình ). Tại đây, Lý Đông A lại bị truy đuổi phải chạy lên Hòa Bình và về vùng Diềm. Nhiều thành viên Đại Việt Duy dân ở những nơi khác bị truy quét cũng chạy lên Hòa Bình. [ 71 ]Trong thế bị truy đuổi, dồn ép, những chỉ huy Đại Việt Duy dân dựa vào sự trợ giúp của lang đạo chống chính quyền sở tại và có được một vài đơn vị chức năng vũ trang trong tay dự tính đánh chiếm Lương Sơn, Lạc Sơn, Chợ Bờ, Suối Rút rồi tiến lên đánh chiếm thị xã Hòa Bình, làm chủ hàng loạt tỉnh Hòa Bình. Lấy Hòa Bình làm bàn đạp chiếm Sơn La, thiết kế xây dựng Hòa Bình – Sơn La thành một địa thế căn cứ to lớn ở miền núi rừng Tây Bắc để chống lại chính quyền sở tại do Việt Minh chỉ huy. [ 71 ] Nhưng kế hoạch của Đại Việt Duy dân đã bị quần chúng phát hiện .Ban cán sự Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Hòa Bình trải qua con trai lang cun Mường Diềm là cán bộ đảm nhiệm lực lượng vũ trang của huyện Mai Đà đã nắm được những tin tức quan trọng về tổ chức triển khai, hoạt động giải trí của Đại Việt Duy dân và đặc biệt quan trọng là nắm được thủ đoạn kế hoạch bạo loạn của Đại Việt Duy dân .Do nắm được kế hoạch của Đảng Đại Việt Duy dân nên trước ngày Đại Việt Duy dân định khởi sự, Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã chỉ huy lực lượng vũ trang, công an tàn phá những toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ở Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Cao Phong, Lương Sơn, thị xã Hòa Bình. Để hủy hoại địa thế căn cứ của Lý Đông A tại vùng Mường Diềm, Ban cán sự Đảng tỉnh đã dùng mưu dụ toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ra khỏi địa thế căn cứ. Lực lượng chiến đấu của Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã hủy hoại và bắt sống đại bộ phận chỉ huy và lực lượng vũ trang của Đại Việt Duy dân tại Bến Chương. Đảng trưởng Lý Đông A chết tại Bến Chương thuộc xã Hiền Lương – Mai Đà. [ 71 ]

Nước Ta Cách mệnh Đồng minh Hội

Khi quân Trung Hoa tiến vào miền Bắt Nước Ta để giải giáp quân Nhật, lực lượng của Nước Ta Cách mệnh Đồng minh Hội cũng theo về, mục tiêu của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho Quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Nước Ta, [ 72 ] gây xung đột vũ trang với Quân Giải phóng và cướp chính quyền sở tại những địa phương … [ 73 ] [ 74 ] Ngày 11 tháng 5, những Lữ đoàn hành vi theo 4 hướng vượt biên giới. Tuy nhiên trong 4 cánh quân này khi xung đột vũ trang với Việt Minh thì 3 cánh quân ( do Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trương Trung Phụng chỉ huy ) đã hạ vũ khí, tự giải giáp hoặc gia nhập lực lượng quân đội vương quốc của Việt Minh, chỉ có một cánh quân do Vũ Kim Thành chạy về vùng Hải Ninh rồi bị tàn phá. Bồ Xuân Luật sau đó làm Bộ trưởng trong nhà nước Liên hiệp .

Riêng Nguyễn Hải Thần thì về Hà Nội lập trụ sở ở đường Quan Thánh phố Cửa Bắc, tìm cách vận động dân chúng nội thành ủng hộ. Việt Cách bắc loa tố cáo Việt Minh là cộng sản; sự việc dẫn đến xô xát giữa những đám người ủng hộ và chống đối.[75] Trong khi lãnh đạo các phe phái Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách tranh cãi về các định nghĩa pháp lý, về việc bổ nhiệm các bộ trưởng và việc đưa ra các tuyên bố chung để đi đến thành lập Chính phủ Liên hiệp thì các chủ bút, cán bộ chính trị, lực lượng vũ trang của các bên vẫn đấu tranh với nhau gay gắt. Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến ban biên tập các tờ báo một bức thư hư cấu chỉ trích Nguyễn Hải Thần không cử người tham gia đoàn quân Nam tiến chi viện cho miền Nam đồng thời buộc tội ông thỏa thuận với quân Pháp. Báo chí thường xuyên cáo buộc Việt Cách và Việt Quốc tống tiền dân chúng. Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên bắt giữ các thành viên Việt Cách vì tội tống tiền, đặc biệt là đối với Hoa kiều. Các thành viên Việt Minh và Việt Cách xé áp phích của nhau, đe dọa tính mạng và phá các cuộc họp của đối thủ. Việt Minh khuyến khích Bồ Xuân Luật rời bỏ Việt Cách lập ra tờ báo Đồng Minh xuất bản cho đến tháng 11 năm 1946. Mười ngày sau đó, tại Hà Nội, Bồ Xuân Luật bị phục kích nhưng may mắn thoát chết.[76]

Các chỉ huy Việt Cách không gặp khó khăn vất vả gì trong việc trấn áp những thị xã từ biên giới Trung Quốc đến đồng bằng sông Hồng cho đến khi quân đội Trung Quốc rút về nước vào tháng 4/1946. Các viên chức nhà nước tại những nơi đó phải đương đầu với việc trung thành với chủ với Việt Cách, trung lập hay di tán khỏi thị xã. Việt Cách nhiều lúc phải xin phép cơ quan chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để triển khai một số ít hoạt động giải trí của họ. [ 77 ]

Bị Việt Quốc làm lu mờ và ngày càng mất đoàn kết, tháng 3/1946, Việt Cách bị chia rẽ. Một số thành viên tập trung bảo vệ các thị xã phía Bắc Hà Nội, những người khác gia nhập Việt Quốc, số còn lại lệ thuộc Việt Minh. Việt Cách có thể đã tổ chức một số cuộc tấn công vào lính Pháp tại Hải Phòng vào tháng 4/1946. Cuối tháng 4/1946, Pháp khai quật được 12 thi hài tại tầng hầm trụ sở cũ của Việt Cách tại Hà Nội trong đó có 2 công dân Pháp mất tích ngày 24/12/1945. Cuối tháng 5/1946, thành viên Việt Cách Hồ Đắc Thành tham gia Hội Liên Việt. Các thành viên Việt Cách ở Quảng Yên và Móng Cái đã rút qua Trung Quốc vào giữa tháng 6/1946. Cuối tháng 10/1946, báo Đồng Minh của Bồ Xuân Luật đưa tin về cuộc họp của một số chi bộ còn lại của Việt Cách và việc một số thành viên Việt Cách tham gia kỳ họp thứ hai của Quốc hội. Công an thu được một số tài liệu của Việt Cách và triệu tập các thành viên Việt Cách tới thẩm vấn. Từ đó trở đi một vài thành viên Việt Cách hợp tác với Việt Minh để xây dựng một hình ảnh mặt trận quốc gia liên hiệp giữa các đảng phái trong khi đó các thành viên khác bị tống giam hoặc phải lưu vong.[77]

Tạ Thu Thâu là người tổ chức và lãnh đạo phong trào Tả Đối lập Trốt-kít (L’Opposition de Gauche), ông hoạt động cách mạng bằng nhiều phương tiện. Về báo chí, ông xuất bản tờ Vô sản (tháng 5 năm 1932), làm báo Pháp ngữ La Lutte (Tranh đấu; tháng 4 năm 1933); nhóm trí thức làm báo này được gọi là “Les Lutteurs” (nhóm Tranh đấu) theo tên tờ báo. Có tên trong đó còn có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch và Dương Bạch Mai. Vì những hoạt động này Tạ Thu Thâu bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam từ tháng 8/1932 đến tháng 1/1933.[78]

Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động giải trí, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist ( nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế ) là quân địch của mình. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ bộc lộ bằng báo chí truyền thông, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm sự không tương đồng quan điểm về việc triển khai cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ xô vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực thi ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh còn Đảng Cộng sản Đông Dương muốn triển khai giải phóng dân tộc bản địa trước rồi làm cách mạng xã hội đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước. [ 79 ]

Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu “Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong Ủy ban Hành chánh Nam bộ”. Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong bắn vào đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương.[79]

Ngay sau đó, Dương Bạch Mai tống giam những người Trotskyist tại Hồ Chí Minh. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22/9/1945 và giao nộp cho người Pháp. [ 79 ] Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức triển khai tiến công quân Anh, Pháp theo lời lôi kéo Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ và hành quyết một cách có mạng lưới hệ thống khoảng chừng 20 chỉ huy phe Trotskyist trong đó có Phan Văn Hùm, một chỉ huy có uy tín của phe Trotskyist. Những thành viên Trotskyist khác phải phụ thuộc Hòa Hảo và những đảng phái vương quốc khác ở đồng bằng sông Cửu Long. [ 79 ]Cuối năm 1945, trên đường ra TP.HN, vừa đến Tỉnh Quảng Ngãi, ông bị giết. [ 80 ] Một số quan điểm khác cho rằng sau khi Nhật hòn đảo chính Pháp vào tháng 9 năm 1945, Tạ Thu Thâu về Nam Kỳ. Trên đường về, ông bị Việt Minh bắt và sau đó xử tử tại Tỉnh Quảng Ngãi. [ 81 ] Phan Văn Hùm cũng là một thành viên điển hình nổi bật trong nhóm Trotskyist. Đầu năm 1946, khi Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ, Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng giết tại miền Đông Nam Bộ .Tại miền Bắc, những chính quyền sở tại địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và tống giam những người Trotskyist tuy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động giải trí. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo lắng so với chính quyền sở tại hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí truyền thông, từ Trotskyist vẫn liên tục Open là để cảnh cáo những nhân viên cấp dưới nhà nước công khai minh bạch phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động trấn áp xí nghiệp sản xuất, xí nghiệp sản xuất. [ 82 ]

Tây Nam Bộ là nơi phát tích của giáo phái Hòa Hảo. Đa số Fan Hâm mộ là những người dân hiền hòa, yêu nước. Nhằm triển khai chủ trương đại đoàn kết toàn dân, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ mới xây dựng sau Cách mạng tháng Tám đã mời người sáng lập giáo phái Hòa Hảo là Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ giữ chức ủy viên đặc biệt quan trọng của Ủy ban. Tuy nhiên, theo Việt Minh, 1 số ít chỉ huy Hòa Hảo có nhiều tham vọng về quyền hành đã tận dụng danh nghĩa của giáo phái Hòa Hảo đòi giao những tỉnh có đông Fan Hâm mộ ( như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc ) cho họ quản lý, quản trị. Khi yêu sách này không được cung ứng, họ 2 lần tổ chức triển khai biểu tình tuần hành, kéo vào thị xã Long Xuyên ( cuối tháng 8-1945 ) và thị xã Châu Đốc ( đầu tháng 9-1945 ) định gây bạo loạn cướp chính quyền sở tại. Lực lượng vũ trang cách mạng được kêu gọi đến kịp thời giải tán. [ 83 ] Theo Archimedes L.A Patti, Hòa Hảo chống lại chủ trương của Việt Minh muốn đàm phán với Đồng Minh nên tổ chức triển khai biểu tình đòi vũ trang quần chúng chống lại việc quân Anh, Pháp đổ xô vào Nam Kỳ. [ 84 ]Ngày 9/9/1945, những người đứng đầu Phật giáo Hòa Hảo lại tổ chức triển khai tuần hành ở thị xã Cần Thơ với nguyên do ” đi rước Đức Thầy “, theo Việt Minh Hòa Hảo dự tính cướp chính quyền sở tại. Chính quyền tỉnh Cần Thơ giải tán cuộc biểu tình này, bắt những người đứng đầu, đưa ra tòa xét xử và phán quyết tử hình 3 người đứng đầu. Đối với Fan Hâm mộ, chính quyền sở tại lý giải ý đồ của chỉ huy Hòa Hảo, khuyên họ trở về nhà liên tục làm ăn, không để bị tận dụng. [ 83 ]Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại Chợ Mới ( Long Xuyên ), Nguyễn Hữu Xuyến, Trung đoàn trưởng Khu 8, đã ký với Trần Văn Soái ( Năm Lửa ), thủ lĩnh một nhóm Hòa Hảo Dân Xã, một thỏa ước nhằm mục đích gác bỏ mọi hiềm khích và hiểu nhầm cũ, cùng nhau đoàn kết chống thực dân Pháp. [ 83 ] Thỏa ước này gồm 3 lao lý :

  1. Hai bên cam kết không chống lại nhau.
  2. Khi một bên bị Pháp tấn công thì bên kia ứng cứu.
  3. Hai bên phối hợp tổ chức đánh Pháp.

Tháng 6 năm 1946 Hòa Hảo tổ chức triển khai lại lực lượng vũ trang lấy tên Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực. [ 85 ] Pháp tương hỗ những người chống chính quyền sở tại của Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, trang bị và phân phối tài lộc cho họ. [ 83 ] Pháp liên minh với những người đứng đầu Hòa Hảo có tư tưởng chống Việt Minh, lập ra nhiều đơn vị chức năng vũ trang mới ngoài những đơn vị chức năng vũ trang Hòa Hảo khác xây dựng từ năm 1944, chiếm cứ một số ít vùng ở Tây Nam Bộ. [ 83 ] Được Pháp trợ giúp, những người chống Việt Minh lập ra 4 nhóm nhằm mục đích mục tiêu để chống lại Việt Minh. Các nhóm này gồm :

Sau một thời hạn tạm hòa hoãn với Việt Minh, từ tháng 3-1947, nhóm Trần Văn Soái bỏ không tham gia kháng chiến do Việt Minh chỉ huy nữa, mà cùng một tiểu đoàn Lê dương Pháp mở cuộc càn quét lớn vào 5 làng ở vùng Tân Châu ( Châu Đốc ). Đại đội 65 Vệ quốc đoàn cùng dân quân du kích địa phương đã đánh trả kinh khủng, buộc lực lượng của Năm Lửa và quân Pháp phải rút lui. [ 83 ]Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1947 ở Tịnh Biên, Tri Tôn ( Châu Đốc ), lực lượng Hòa Hảo và Cao Đài Tây Ninh chống Việt Minh liên tục đánh phá vùng Việt Minh trấn áp, tàn sát thường dân, đốt phá xóm làng, truy lùng cán bộ Việt Minh và quần chúng cốt cán của kháng chiến. [ 83 ] Theo Việt Minh, những người đứng đầu Dân xã Hòa Hảo phát động một cuộc tắm máu ở Tây Nam Bộ vào ngày 6/4/1947. Những dân cư không ủng hộ Dân xã Hòa Hảo đều bị xem là quân địch, bị giết, buộc đá vào cổ, thả trôi sông. Dân chúng vô cùng phẫn uất trước hành vi dã man của Dân xã Hòa Hảo. [ 83 ] Ngoài việc giết hại dân thường, quân Dân xã Hòa Hảo còn tổ chức triển khai những hành vi cướp phá ở những vùng do Việt Minh trấn áp tại những tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ. [ 83 ]Ngày 16 tháng 4 năm 1947 Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ bất thần mất tích khi đến Tân Phú, Đồng Tháp Mười để hòa giải xung đột giữa Việt Minh và Phật giáo Hòa Hảo. Các tài liệu của phương Tây, Nước Ta Cộng hòa đều cho rằng Việt Minh thủ tiêu Huỳnh Phú Sổ. [ 86 ] [ 87 ] [ 88 ] Sau khi Huỳnh Phú Sổ mất tích, quan hệ Việt Minh – Hòa Hảo trọn vẹn đổ vỡ .Năm 1947, những lực lượng Việt Minh vừa tổ chức triển khai tuyên truyền vũ trang, vừa mở một trận đánh lớn tại Kinh 13. Chỉ huy quân sự chiến lược của Dân xã Hòa Hảo lừa dối Fan Hâm mộ nói : ” Súng Việt Minh bắn không nổ ! “, xua Fan Hâm mộ tràn vào trận địa của Việt Minh. Lực lượng vũ trang của Việt Minh một mặt lý giải cho những Fan Hâm mộ hiểu, mặt khác đánh quân của Dân xã Hòa Hảo, diệt nhiều lính, thu nhiều súng, có 1 Bazoka. Ở khu vực giữa Phú An – Phú Lâm ( Tân Châu ), Đại đội 65 đánh bật lực lượng của Dân xã ra khỏi vùng này. Việt Minh lan rộng ra công tác làm việc vũ trang tuyên truyền về hướng Thoại Sơn, liên tục tiến công ở Ba Thê, đánh lính Lê dương đi tàu sắt đổ xô lên Mốp Văn và Núi Sập, diệt trên 200 lính. [ 83 ]Tháng 6/1947, nhằm mục đích lôi cuốn Fan Hâm mộ Hòa Hảo tạo thành khối đoàn kết những lực lượng chống Pháp, Việt Minh xây dựng Ban Hòa Hảo vận tại Chợ Mới – Nhà Bàn, tập trung chuyên sâu hoạt động giải trí vùng Long Xuyên, Châu Đốc, tuyên truyền chủ trương đại đoàn kết dân tộc bản địa, hoạt động Fan Hâm mộ Hòa Hảo cùng toàn dân kháng chiến chống xâm lược Pháp. [ 83 ] Do Phật giáo Hòa Hảo có Fan Hâm mộ rất đông ở miền Tây, nhất là những tỉnh : Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Cần Thơ … Đạo này có tổ chức triển khai chính trị là Nước Ta Dân chủ Xã hội Đảng làm nòng cốt, nên có nhiều diễn biến phức tạp ngay cả trong nội bộ của đạo. Những người chống Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, tổ chức triển khai nhiều lực lượng vũ trang hợp tác với Pháp, áp bức khủng bố dân chúng ủng hộ Việt Minh, gây ra nhiều tội ác. [ 83 ] Dù vậy, đa phần Fan Hâm mộ là nông dân, khi Việt Minh tích cực hoạt động thì 1 số ít Fan Hâm mộ Hòa Hảo giác ngộ và tham gia cuộc kháng chiến do Việt Minh chỉ huy. Sư thúc Huỳnh Văn Trí là người chỉ huy một đơn vị chức năng vũ trang trong kháng chiến đã có công lớn trong công cuộc hoạt động Fan Hâm mộ Hòa Hảo tham gia kháng chiến. Trong những năm 1949 – 1950, nhiều đồn bốt đã án binh bất động, ” trung lập hóa “, không đàn áp dân chúng và tránh không đụng độ với lực lượng Việt Minh. [ 83 ]

Đạo Cao Đài là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ “một nơi cao”, nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Để tỏ lòng tôn kính, một số tín đồ Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là đạo Trời.

Cả người Nhật lẫn Việt Minh đều tranh thủ ra sức lôi kéo những nhóm Cao Đài. Do sự hoạt động của những cán bộ Việt Minh, một nhóm những chức sắc Cao Đài, nòng cốt ở những phái Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo và Minh Chơn Đạo, đã bí hiểm xây dựng Hội Cao Đài Cứu Quốc. Hội hoạt động giải trí hầu hết ở những vùng xa ở Tây Nam Bộ, bí hiểm tập hợp lực lượng trên nền tảng Thanh niên Đạo đức đoàn dưới sự chỉ huy của Cao Triều Phát cố vấn Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, có khuynh hướng chống cả Pháp lẫn Nhật. Người Nhật thì can thiệp mở lại Tòa Thánh Tây Ninh tại TP HCM, đổi lại việc Giáo sư Thượng Vinh Thanh ( Trần Quang Vinh ), người trong thời điểm tạm thời đại diện thay mặt Hộ pháp Phạm Công Tắc chỉ huy những Fan Hâm mộ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, tập hợp những Fan Hâm mộ hợp tác với quân đội Nhật để chống Pháp. Khá đông Fan Hâm mộ Cao Đài được tuyển làm nhân công của xưởng đóng tàu Nichinan của quân đội Nhật tại Nam Bộ. Một lực lượng bán vũ trang Cao Đài được sinh ra với tên gọi Nội ứng nghĩa binh, dưới danh nghĩa được Hoàng thân Cường Để chỉ thị xây dựng để liên minh với Nhật Bản .Trong Cách mạng tháng Tám, nhiều nhóm bán vũ trang Cao Đài đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc và tham gia giành chính quyền sở tại ở khắp Nam Bộ. Sau khi giành được chính quyền sở tại cuối tháng 8 năm 1945, nhiều chức sắc Cao Đài được chính quyền sở tại Việt Minh mời ra tham chính. Tại Tây Ninh, một Fan Hâm mộ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là ông Trương Văn Xương được mời làm Phó quản trị Ủy ban Hành chánh tỉnh, một chức sắc Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh khác là Giáo sư Thượng Chữ Thanh ( Đặng Trung Chữ ) được mời làm cố vấn .Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại những mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Hồ Chí Minh. Sau khi vào Nam, Đặc phái viên Trung ương Nguyễn Bình đã tổ chức triển khai hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức triển khai những đơn vị chức năng vũ trang thành những chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức triển khai thành 2 chi đội số 7 do Nguyễn Thanh Bạch chỉ huy và chi đội số 8 do Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy .Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, những mặt trận nhanh gọn tan vỡ. Nhiều đơn vị chức năng vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc hạng sang và chỉ huy quân sự chiến lược Cao Đài đã đưa lực lượng của mình rút về Tây Ninh và kiến thiết xây dựng những địa thế căn cứ để bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh. Hành động cát cứ này là nguyên do để những thành phần Việt Minh quá khích lên án những Fan Hâm mộ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những Fan Hâm mộ Cao Đài và những thành phần Việt Minh quá khích. Chi đội số 7 và số 8 do Cao Đài chỉ huy bị Việt Minh vây hãm tước khí giới. Giáo sư Thượng Vinh Thanh ( Trần Quang Vinh ) cũng bị bắt tại Chợ Đệm và bị giải giam tại Cà Mau cùng với Giáo sư Hồ Văn Ngà, quản trị Nước Ta Độc lập Đảng. [ 89 ]Nắm được sự xích míc này và để tranh thủ thêm liên minh trong đại chiến chống Việt Minh, chính quyền sở tại Pháp được cho phép Hộ pháp Phạm Công Tắc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại những Fan Hâm mộ Cao Đài sẽ không tiến công người Pháp và được quân Pháp bảo trợ. Thậm chí, chính quyền sở tại Pháp còn được cho phép những chủ quyền lãnh thổ do Tòa Thánh Tây Ninh trấn áp có quyền tự trị. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được chính quyền sở tại Pháp bảo trợ và trang bị vũ khí, do Trung tướng Trần Quang Vinh làm Tổng tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thành làm Tham mưu trưởng, [ 90 ] có vai trò như một lực lượng bổ trợ ( Forces supplétives ), tương hỗ quân Pháp trong những chiến dịch tiến công Việt Minh .Bất đồng trước sự hợp tác của 1 số ít chức sắc với quân Pháp, những chức sắc còn lại của Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đã gia nhập ” Cao Đài Cứu Quốc “, lan rộng ra thành ” Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hiệp Nhứt ” với lập trường liên tục ủng hộ kháng chiến chống Pháp. Các lực lượng vũ trang của Cao Đài Cứu Quốc được tập hợp thành Trung đoàn 124, chiến đấu cho đến hết cuộc Kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Việt Minh. Phản ứng trước việc này, chỉ huy Tòa Thánh Tây Ninh công bố trục xuất những chức sắc và Fan Hâm mộ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nào tham gia Cao Đài Cứu Quốc .

Bình Xuyên

Bình Xuyên nguyên thủy là ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng, huyện Nhà Bè, Sài Gòn. Kể từ năm 1945, danh xưng “Bình Xuyên” được dùng để mô tả Bộ đội Bình Xuyên với nòng cốt là giới du đãng ven Sài Gòn, hoạt động trong 10 năm (1945 – 1955).

Sau khi quân Anh-Pháp gây hấn ở Hồ Chí Minh ( 23 tháng 9 năm 1945 ), nhiều lực lượng quân sự chiến lược chống Pháp được xây dựng. Người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai Nhị, Hai Soái … Khi Dương Văn Dương, thủ lĩnh những nhóm giang hồ Nam Bộ, thống nhất những lực lượng quân sự chiến lược chống Pháp ở Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm, ông đã chọn cái tên ” Bình Xuyên ” để đặt cho lực lượng thống nhất này. Đây là tên chữ trên map Hồ Chí Minh – Chợ Lớn để chỉ vùng Hố Bần, còn gọi là Xóm Cỏ, địa phận hoạt động giải trí của lực lượng này. Cái tên ” Bình Xuyên ” còn hàm chỉ : ” Bình ” gợi chiến công đánh chiếm và bình định, còn chữ ” Xuyên ” để chỉ vùng chi chít sông rạch .Bộ đội Bình Xuyên là lực lượng quân sự chiến lược mạnh nhất ở vùng Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Địa bàn hoạt động giải trí được tổ chức triển khai thành Liên khu Bình Xuyên ( gồm những chi đội số 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25 ), đảm trách nhiệm vụ vây hãm quân Anh-Pháp ở mạn Nam Hồ Chí Minh. Sau khi đặc phái viên TW Nguyễn Bình vào tổ chức triển khai quân đội, Dương Văn Dương được chỉ định làm Khu bộ phó Khu 7. Sau khi Dương Văn Dương tử trận vào năm 1946, lực lượng Bình Xuyên bị phân hóa. Một bộ phận chống Pháp do Dương Văn Hà ( tức Năm Hà, em cùng cha khác mẹ của Dương Văn Dương ) chỉ huy, được tổ chức triển khai lại và phiên chế chính quy thành Vệ quốc đoàn. Một bộ phận khác do Lê Văn Viễn ( tức Bảy Viễn ) chỉ huy, li khai năm 1948 và hợp tác với Pháp, sau đó tham gia vào chính phủ nước nhà Quốc gia Nước Ta. Thành phần này là lực lượng Bình Xuyên được biết đến nhiều nhất vào thập niên 1950. Tháng 12/1947, Đại úy Savani ( Thuộc Phòng nhì Pháp, một cơ quan tình báo quốc phòng hải ngoại của Pháp ) cho người bí hiểm tiếp xúc với Bảy Viễn để chuẩn bị sẵn sàng lập Chiến khu Quốc gia Rừng Sác .

Đầu năm 1948, Bảy Viễn đồng ý đi Đồng Tháp gặp Nguyễn Bình (Nguyễn Bình cho mời Huỳnh Văn Nghệ hay còn gọi là Tám Nghệ đi Rừng Sác để thuyết phục vì biết Bảy Viễn rất nể trọng Tám Nghệ dù ông tướng này không phải dân giang hồ), và để tham gia cuộc họp quan trọng do Nguyễn Bình chủ trì với mục đích phong Bảy Viễn chức Khu trưởng khu 7, đồng thời giải quyết những mâu thuẫn đang tồn tại giữa bộ đội Bình Xuyên của Bảy Viễn và bộ đội Nguyễn Bình. Tại cuộc họp, Bảy Viễn đã trả lời những chất vấn của Nguyễn Bình về những mâu thuẫn nội bộ và tỏ ý nghi ngờ, lưỡng lự trong việc nhận chức Khu trưởng khu 7 mà trước đó Bảy Viễn cho rằng người xứng đáng nhận chức này phải là Huỳnh Văn Nghệ vì chiến công của bộ đội Tám Nghệ vượt xa những chiến công của bộ đội Bảy Viễn. Nguyễn Bình quyết định giải tán các đơn vị thuộc Bình Xuyên, phiên chế thành các đơn vị Vệ quốc đoàn để đối phó âm mưu chia rẽ các lực lượng Quốc gia và Việt Minh của Phòng nhì Pháp, mặc cho rất nhiều những lãnh đạo chủ chốt bên phía Bình Xuyên phản đối quyết định này (Bao gồm cả Mười Trí, một trong những thủ lĩnh chính của Lực lượng Bình Xuyên). Nguyễn Long Thành Nam cho rằng Bảy Viễn phản đối quyết liệt vì ông nghĩ Nguyễn Bình đã sát hại Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và hai lần ám sát Viễn nhưng bất thành.[91] Bảy Viễn nói với Nguyễn Bình “chúng tôi không hài lòng về cung cách đồng chí đối xử với chúng tôi. Bình Xuyên đã chiến đấu từ trước khi đồng chí vào tới Nam Bộ, đồng chí không hề đề nghị giúp đỡ gì chúng tôi, mà đồng chí chỉ hạ lịnh bắt chúng tôi phải thi hành… Chúng tôi nghĩ rằng các chánh trị viên không có gì để dạy dỗ chúng tôi. Chúng tôi đã ý thức cầm súng chiến đấu vì nền độc lập của tổ quốc, và để đòi tự do. Chúng tôi không chiến đấu cho một chế độ đảng trị, hay để củng cố uy quyền lãnh đạo đã nhẫn tâm tàn sát đồng đội một cách ác độc hơn là đối với quân thù…“. Bảy Viễn hỏi Nguyễn Bình vì sao giết giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ thì được Nguyễn Bình trả lời “Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt Cộng sản và cá nhân tôi, cho nên phải tiêu diệt”. Bảy Viễn kết tội Nguyễn Bình đã hai lần ám sát ông, Nguyễn Bình phản bác “Chính hắn (Bảy Viễn) đã nhiều lần mưu sát tôi, đoàn hộ vệ của tôi đã chết về tay hắn“. Bảy Viễn từ chối chức Khu trưởng khu 7 và tỏ vẻ bất hợp tác với Việt Minh. Trên đường từ Đồng Tháp trở về Rừng Sác, Bảy Viễn và đoàn tùy tùng bị Trung đoàn 306 của Nguyễn Bình phục kích trong đêm nhưng Bình Xuyên đã đề phòng nên họ thoát khỏi vòng phục kích.[92]

Ngày 12 tháng 6 năm 1948, qua sự trung gian móc nối của Đại úy Savani ( Trưởng phòng nhì Pháp ) cùng Thiếu úy Cistisni, Bảy Viễn họp với 2 sĩ quan Pháp bàn việc hợp tác giữa 2 bên. Ngày 13 tháng 6, Bảy Viễn mở cuộc hành quân để tái chiếm chiến khu Rừng Sác của Việt Minh nhưng không thành vì tướng Nguyễn Bình đã cho củng cố chiến khu này rất ngặt nghèo. Ngày 1 tháng 8 cùng năm, Bảy Viễn được Tướng De Latour gắn lon Đại tá và thuộc quyền Tổng trấn Nam phần .Từ năm 1948, nhóm Bình Xuyên li khai là một lực lượng quân sự chiến lược bổ trợ nằm trong khối Liên hiệp Pháp dưới tên tuổi ” Công an Xung phong “, địa phận hoạt động giải trí ở xung quanh Hồ Chí Minh. Dưới sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên trấn áp nhiều sòng bài, nhà thổ, cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng TP HCM – Chợ Lớn trong đó phải kể Casino Grande Monde ( Đại Thế giới ), Casino Cloche d’Or ( Kim Chung ), Bách hóa Noveautes Catinat [ 93 ]. Có tài liệu còn cho thấy Bảy Viễn móc nối với người hòn đảo Corse ( Thuộc nước Pháp ) để buôn thuốc phiện và ma tuý công khai minh bạch. Trong giới giang hồ miền Nam khi đó thì Bảy Viễn là người thành công xuất sắc nhất về quyền lực tối cao, sự giàu sang cũng như danh vọng .Sau Hiệp định Genève, Bình Xuyên phải sáp nhập vào Quân đội Quốc gia Nước Ta nhưng ngầm không phục tùng. Đến năm 1955 thì nhóm Bình Xuyên bị lực lượng của Ngô Đình Diệm tàn phá. Bảy Viễn và những thuộc cấp được Pháp giải thoát và đưa sang Pháp bằng phi cơ, khởi đầu đời sống lưu vong .

Công giáo

Người Công giáo Nước Ta tích cực ủng hộ sự độc lập của Nước Ta, đặc biệt quan trọng thấy rõ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được công bố xây dựng vào tháng 9 năm 1945. [ 94 ] Ngày tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 khi đó trùng vào dịp nghỉ lễ kính những đấng tử đạo Nước Ta. Trong chính quyền sở tại Nước Ta có những nhân vật Công giáo điển hình nổi bật như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng. Người Công giáo Nước Ta chống lại việc thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, và họ trở nên dấn sâu vào trào lưu độc lập dân tộc bản địa. [ 95 ] Chính quyền Nước Ta cử chỉ huy cấp cao tới dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ và lễ xây dựng Liên đoàn Công giáo tại Phát Diệm. [ 95 ] Là người kinh khủng chống Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ nhận lời mời của quản trị Hồ Chí Minh làm cố vấn tối cao của cơ quan chính phủ. [ 96 ]Trong quá trình bắt đầu này, tiếp xúc giữa Công giáo và cộng sản tại miền Bắc diễn ra trực tiếp và ở cấp cao nhất, còn tại miền Nam, nơi sớm bị Pháp tái chiếm, những cuộc liên lạc này ít chính thức hơn. [ 95 ] Phong trào kháng Pháp của người Công giáo ở Nam Bộ cũng diễn ra sôi sục, nhiều người trong số đó ủng hộ Việt Minh như bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, luật sư Thái Văn Lung, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh. [ 97 ]Nhiều giáo sĩ Công giáo Nước Ta tôn vinh niềm tin dân tộc bản địa, chống thực dân đồng thời nỗ lực giữ người Công giáo khỏi bị cuốn vào đại chiến giữa thực dân Pháp và Việt Minh. Hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu được vũ trang thành khu tự vệ Công giáo. [ 98 ] Trong suốt cuối thập niên 1940, khu vực này giữ được sự độc lập khỏi cả thực dân Pháp và Việt Minh. [ 94 ] Nhiều người dân lương, giáo đã kéo về đây để tránh tình hình chiến sự căng thẳng mệt mỏi. [ 99 ]Trong suốt Chiến tranh Đông Dương, Tòa Thánh Vatican không sẵn lòng ủng hộ thực dân Pháp lôi kéo người Công giáo Nước Ta. [ 100 ] Vấn đề là trào lưu dân tộc bản địa ở Nước Ta lại do Đảng cộng sản chỉ huy. Vatican cho rằng thức hệ cộng sản với chủ trương nhà nước vô thần muốn vô hiệu những tôn giáo. [ 101 ] Tháng 6 năm 1948, Vatican nhận định và đánh giá rằng người cộng sản Việt Nam ” từng chút một ” thể hiện thực chất không phải là những người yêu nước mà là một đảng chống tôn giáo sẽ thực thi việc ” bách hại có mạng lưới hệ thống ” người Công giáo Nước Ta. [ 100 ] Ngày 1 tháng 7 năm 1949, khi Đảng cộng sản đang dần trấn áp hàng loạt Trung Quốc, Giáo hoàng Piô XII ra sắc lệnh cấm tín hữu Công giáo khắp quốc tế cộng tác với trào lưu cộng sản. [ 100 ]Từ năm 1950, cả thực dân Pháp và Việt Minh đều muốn trấn áp khu tự trị Phát Diệm – Bùi Chu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở nên gắn bó với khối cộng sản quốc tế, trong khi Vatican thì lên án mọi sự cộng tác với cộng sản, còn Quốc gia Nước Ta phi cộng sản được Hoa Kỳ hậu thuẫn đang trỗi dậy, dẫn đến việc những giáo sĩ Nước Ta nghiêng về phía chống cộng nhưng không từ bỏ chủ nghĩa dân tộc bản địa và chống thực dân. [ 94 ] Năm 1951 tại TP. Hà Nội, những đấng bản quyền Đông Dương ra thư chung bộc lộ lập trường chống cộng sản nóng bức : ” Chẳng những không được nhập đảng cộng sản, và lại bạn bè không hề cộng tác bất kể dưới hình thức nào hoàn toàn có thể trợ giúp họ nắm chính quyền sở tại. ” Lá thư thôi thúc lòng yêu nước và đức bác ái : ” Lòng ái quốc là tình yêu tổ quốc, là yêu quê cha đất tổ … chúng tôi khuyến khích và vun trồng nó như những nhân đức Kitô giáo khác. ” [ 102 ]Năm 1951, thực dân Pháp trấn áp về mặt hành chính và quân sự chiến lược so với khu Phát Diệm – Bùi Chu, chấm hết sự tự trị của nơi này. [ 94 ] Thái độ chính trị hoặc trung lập chính trị của người Công giáo Nước Ta cho thấy sự phong phú : họ không phải là một khối như nhau. Đông đảo hơn cả là những giáo hữu theo đường lối của những giám mục, thiểu số là những người ủng hộ Bảo Đại, hoặc là theo Việt Minh. [ 95 ] Tại Địa phận Thành Phố Hà Nội, Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê giải quyết và xử lý quân bình trước cả hai phía. [ 99 ] Theo trang VietCatholic ở hải ngoại, những nghiên cứu và điều tra gần đây cho thấy Tòa Thánh và giới Công giáo Nước Ta không cộng tác với thực dân Pháp như thường được tuyên truyền. [ 99 ]

Trong Chiến tranh Đông Dương

Tháng 2 năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương ( lúc này đổi tên thành Đảng Lao động Nước Ta ) ra hoạt động giải trí công khai minh bạch. Hội nghị hợp nhất từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 3 năm 1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang đã công bố hợp nhất Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt. Tuy vậy Mặt trận Liên Việt vẫn được nhiều người quen gọi là Việt Minh .

Năm 1955, Mặt trận Liên Việt tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ và tự giải tán. Ngày 10 tháng 9 năm 1955, một tổ chức kế thừa Mặt trận Liên Việt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời và hoạt động cho đến ngày nay.

Tên gọi Việt Cộng và Vi Xi ( VC )

Năm 1954, tại Điện Biên Phủ quân Pháp đã đầu hàng. Theo pháp luật của Hiệp định Genève, Nước Ta được trong thời điểm tạm thời chia cắt thành hai vùng tập trung chuyên sâu quân sự chiến lược và một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn nước sẽ được tổ chức triển khai trong vòng 2 năm để thống nhất quốc gia. Phần lớn lực lượng của Việt Minh được tập trung chuyên sâu về phía Bắc vĩ tuyến 17. Quân đội thực dân Pháp và liên minh, Quân đội Quốc gia Nước Ta, tập trung chuyên sâu về phía Nam vĩ tuyến 17 .

Các nhà lãnh đạo Việt Minh tin rằng với sự ủng hộ của đa số dân chúng, họ chắc chắn sẽ giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm, dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ thông qua Chính sách Truman, đã đè bẹp lực lượng dân chủ đối lập, kẻ thù cá nhân cũng như các nhân vật tình nghi ủng hộ cộng sản tại miền Nam và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng hòa, từ chối tiến hành tổng tuyển cử. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tiếp tục đấu tranh để thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử theo Hiệp định Genève. Một phần lực lượng Việt Minh tại miền Nam lui vào hoạt động bí mật và sau này đã tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960. Trong các tài liệu, sách báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, họ được gọi là Việt Cộng, còn sách báo phương Tây gọi là Viet Cong, hay Victor Charlie, Vietnamese Communist hay V.C. (Vi Xi).

Chú thích

Thư mục

Xem thêm

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories