Vi phạm bản quyền – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Đối với những định nghĩa khác, xem Lậu Một quảng cáo cho những dịch vụ sẵn sàng chuẩn bị bản quyền và văn bằng bản quyền trí tuệ từ năm 1906, khi những thủ tục ĐK bản quyền vẫn được nhu yếu ở Mỹ

Vi phạm bản quyền, ăn cắp bản quyền hay lậu là việc sử dụng các tác phẩm được bảo vệ bởi luật bản quyền một cách trái phép, trừ khi có sự cho phép, do đó vi phạm một số quyền độc quyền được cấp cho chủ bản quyền, như quyền sao chép, phân phối, hiển thị hoặc thực hiện công việc được bảo vệ, hoặc để thực hiện các tác phẩm phái sinh. Chủ bản quyền thường là người tạo ra tác phẩm hoặc nhà xuất bản hoặc doanh nghiệp khác được giao bản quyền. Chủ bản quyền thường xuyên viện dẫn các biện pháp pháp lý và công nghệ để ngăn chặn và xử phạt vi phạm bản quyền.

Tranh chấp vi phạm bản quyền thường được giải quyết thông qua đàm phán trực tiếp, thông báo và xử lý, hoặc kiện tụng tại tòa án dân sự. Vi phạm thương mại tổng hợp hoặc quy mô lớn, đặc biệt là khi liên quan đến hàng giả, đôi khi bị truy tố thông qua hệ thống tư pháp hình sự. Thay đổi kỳ vọng của công chúng, tiến bộ trong công nghệ kỹ thuật số và sự tiếp cận ngày càng tăng của Internet đã dẫn đến sự vi phạm ẩn danh, phổ biến đến mức các ngành công nghiệp phụ thuộc bản quyền hiện nay ít tập trung vào việc theo đuổi các cá nhân tìm kiếm và chia sẻ nội dung được bảo vệ bản quyền trực tuyến, mà tập trung vào việc mở rộng bản quyền pháp luật công nhận và xử phạt, với tư cách là người xâm phạm gián tiếp, các nhà cung cấp dịch vụ và nhà phân phối phần mềm được cho là tạo điều kiện và khuyến khích các hành vi xâm phạm cá nhân của người khác.

Ước tính tác động ảnh hưởng kinh tế tài chính trong thực tiễn của việc vi phạm bản quyền rất khác nhau và phụ thuộc vào vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, chủ bản quyền, đại diện thay mặt của những ngành và những nhà lập pháp từ lâu đã diễn đạt hành vi vi phạm bản quyền là trộm cắp – ngôn từ mà một số ít tòa án nhân dân Hoa Kỳ lúc bấy giờ coi là mang tính miệt thị hoặc gây tranh cãi. [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]

Một số động cơ để tham gia vi phạm bản quyền là như sau : [ 4 ]

  • Giá cả   – không sẵn sàng hoặc không có khả năng trả giá theo yêu cầu của người bán hợp pháp
  • Kiểm tra và đánh giá   – thử trước khi trả tiền cho những gì có thể là giá trị xấu
  • Không có sẵn   – không có người bán hợp pháp cung cấp sản phẩm bằng ngôn ngữ hoặc quốc gia của người dùng cuối: chưa được tung ra ở đó, đã rút khỏi bán hàng, không bao giờ được bán ở đó, hạn chế về địa lý đối với phân phối trực tuyến và vận chuyển quốc tế
  • Hữu ích   – sản phẩm hợp pháp đi kèm với phương tiện khác nhau (DRM, khóa vùng, mã vùng DVD, Blu-ray mã vùng) của việc hạn chế sử dụng hợp pháp (bản sao lưu, sử dụng trên các thiết bị của các nhà cung cấp khác nhau, sử dụng ngoại tuyến) hoặc đi kèm với quảng cáo không thể bỏ qua và chống từ chối trách nhiệm pháp lý, được loại bỏ trong sản phẩm trái phép làm cho nó trở nên hấp dẫn hơn đối với người dùng cuối
  • Kinh nghiệm mua sắm   – không có người bán hợp pháp cung cấp sản phẩm với chất lượng cần thiết thông qua phân phối trực tuyến và thông qua hệ thống mua sắm với mức độ thân thiện với người dùng cần thiết
  • Nặc danh   – tải xuống tác phẩm không yêu cầu nhận dạng trong khi tải xuống trực tiếp từ trang web của chủ sở hữu bản quyền thường yêu cầu địa chỉ email hợp lệ và/hoặc thông tin đăng nhập khác
  • Tự do thông tin   – Không tin rằng ý tưởng về luật bản quyền có thể hoặc nên tồn tại.

Đôi khi nguyên do là chỉ tuân thủ một phần với thỏa thuận hợp tác cấp phép. Ví dụ, vào năm 2013, Quân đội Hoa Kỳ đã xử lý một vụ kiện với công ty Apptricity có trụ sở tại Texas, nơi sản xuất ứng dụng được cho phép quân đội theo dõi binh lính của họ trong thời hạn thực. Năm 2004, Quân đội Hoa Kỳ đã trả 4,5 triệu đô la Mỹ cho giấy phép 500 người dùng, trong khi bị cáo buộc thiết lập ứng dụng cho hơn 9000 người dùng ; vấn đề đã được xử lý với đền bù 50 triệu đô la Mỹ. [ 5 ] [ 6 ] Các tổ chức triển khai chống vi phạm bản quyền lớn, như BSA, tiếp tục triển khai truy thuế kiểm toán cấp phép ứng dụng để bảo vệ luật bản quyền được tuân thủ vừa đủ. [ 7 ]

Cara Cusumano, giám đốc của Liên hoan phim Tribeca, tuyên bố vào tháng 4 năm 2014: “Vi phạm bản quyền ít hơn đối với những người không muốn trả tiền và vi phạm nhiều hơn đối với những người muốn có sản phẩm ngay lập tức- mọi người nói, ‘Tôi muốn xem Người nhện ngay bây giờ’ và tải xuống “. Tuyên bố xảy ra trong năm thứ ba mà lễ hội đã sử dụng Internet để trình bày nội dung của mình, trong khi đó là năm đầu tiên nó giới thiệu một chương trình giới thiệu các nhà sản xuất nội dung mà chỉ làm việc trực tuyến. Cusumano giải thích thêm rằng hành vi tải xuống không chỉ được thực hiện bởi những người chỉ muốn lấy nội dung miễn phí:

Các dạng vi phạm bản quyền[sửa|sửa mã nguồn]

Vi phạm về bản quyền một tác phẩm[sửa|sửa mã nguồn]

  • Sao chép nguyên văn một phần hay toàn bộ tác phẩm đã có từ trước nhưng không có giấy cho phép của người hay giới có bản quyền.
  • Lưu truyền trái phép một phần hay toàn bộ tác phẩm không thuộc về quyền tác giả của mình
  • Bản văn không bị sao chép nguyên văn nhưng toàn bộ ý tưởng chi tiết cũng như thứ tự trình bày của một tác phẩm bị sao chép. Dạng vi phạm này khó phát hiện hơn nhưng vẫn có thể cho là một dạng vi phạm bản quyền nếu như có bằng chứng là “bản sao” bắt chước theo nguyên mẫu. Có thể thấy ví dụ ở những luận án cao học không ghi rõ nguồn và tác giả chính.
  • Bản văn không bị sao chép nguyên văn nhưng bị thông dịch lại các ý tưởng sáng tạo (thành ngôn ngữ khác hay thành các dạng khác).

Lưu ý:

Một tác phẩm sẽ không bị xem là vi phạm bản quyền nếu nó là sự tổng hợp có tính sáng tạo riêng từ nhiều hệ thống tác phẩm khác về ý (ý văn, ý nhạc, ý tưởng) và có thông tin rõ ràng về nguồn và tác giả chính. Tuy nhiên, để kết luận rằng một tác phẩm là không hay có vi phạm bản quyền, trường hợp này, thường rất phức tạp và đôi khi phải có sự can thiệp của các luật sư và toà án.

Vi phạm bản quyền của một sáng tạo[sửa|sửa mã nguồn]

  • Sử dụng lại ý tưởng đã được công bố là sáng chế và bằng sáng chế nguyên thủy vẫn còn đang trong vòng hiệu lực của luật pháp. Ở đây cần lưu ý, một bằng sáng chế tại một quốc gia hay địa phương này, sẽ khó có thể dùng để chứng minh rằng: một ứng dụng nào đó (dựa trên sáng chế đó) tại một quốc gia khác là vi phạm bản quyền, trừ khi bằng sáng chế đó có sự công nhận của quốc tế.
  • Mô phỏng lại, hay viết lại (bằng một ngôn ngữ khác hay cách viết khác) miêu tả của một ý kiến sáng tạo đã được công nhận là một sáng chế còn trong thời hạn định nghĩa bởi chủ quyền cũng là một dạng vi phạm bản quyền. Dạng này tương đối khó phát hiện nhưng những dấu tích về cấu trúc ý tưởng hay phương cách dàn dựng kỹ thuật sẽ có thể là những dấu tích chứng minh rằng một sáng chế đã bị đánh cắp hay không. Ví dụ: việc sao chép lại các sáng chế trong phần mềm bằng cách dùng ngôn ngữ lập trình khác hơn ngôn ngữ của sáng chế nguyên thủy vẫn thường bị xem là vi phạm bản quyền nếu người viết lại đó mô phỏng theo ý tưởng đã được cấp bằng sáng chế.

Lưu ý:

  1. Có rất nhiều trường hợp hai sáng chế có thể tương tự nhau và không thể xem là ăn cắp của nhau. Việc chứng minh rằng hai sáng chế là từ các ý tưởng độc lập thường được dựa vào các chi tiết như là ngày tháng, người chứng kiến (làm chứng) và, quan trọng hơn, các chi tiết chứng tỏ có sự khác nhau về nguồn gốc, động lực, hay cách cấu trúc của sáng chế.
  2. Tuỳ theo quốc gia, các bằng sáng chế sẽ chỉ có hiệu lực trong một thời gian pháp định nào đó. Các bằng sáng chế có tính quốc tế thường chỉ có hiệu lực tối đa là 20 năm. Sau thời hạn pháp định này, thì các ý tưởng sáng tạo sẽ mặc nhiên được xem là kiến thức chung của nhân loại và mọi người sẽ được sử dụng nó mà không phải xin phép tác quyền.

Các dạng vi phạm khác[sửa|sửa mã nguồn]

Các dạng vi phạm bản quyền khác có thể bao gồm từ việc sao chép, mô phỏng lại các thương hiệu (trade mark) hay các biểu hiệu (logo) của một tổ chức, cho đến việc sao chép các chi tiết có tính hệ thống mà phải qua một trình tự thời gian dài mới chứng minh được. Những vi phạm này thường rất khó phân định và nhiều lúc phải tốn nhiều thời gian cũng như tài lực để chứng minh trước toà án rằng có hay không có sự vi phạm về bản quyền.

Trong tiếng Việt còn có từ đạo văn chỉ việc ăn cắp bản quyền các văn bản. Một từ tương tự là đạo nhạc, ăn cắp các giai điệu nhạc sáng tác bởi người khác, đạo hình, ăn cắp hoặc chỉnh sửa hình ảnh trái phép hoặc không thuộc về mình.

Ví dụ và giải pháp[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Các pháp luật pháp lý[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Nước Ta, việc bảo lãnh quyền tác giả được kiểm soát và điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý. Một số văn bản pháp quy được liệt kê dưới đây :

Công ước Berne[sửa|sửa mã nguồn]

Nước Ta gia nhập Công ước Berne tháng 10 năm 2004. Việc xuất bản của những tổ chức triển khai, cá thể tại Nước Ta kể từ ngày này trở đi sẽ được kiểm soát và điều chỉnh theo những lao lý trên đây với ưu tiên vận dụng những pháp luật của Công ước Berne nếu những pháp luật pháp lý hiện hành xích míc với pháp luật của Công ước .

Đăng ký quyền tác giả[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories