Tiếng lóng Sài Gòn :: Suy ngẫm & Tự vấn :: https://blogchiase247.net

Related Articles

Tiếng lóng vốn là tiếng của … vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có lẽ chỉ những bậc tu hành mới không có ( chứ nhiều lúc những ngài cũng dùng ) tiếng lóng chuyên dùng. Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó ( ăn chơi, mánh mung, lính tráng … ), là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải “ tiếng lòng ” tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn từ của tư duy. Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là … nói tiếng lóng .Hồ Chí Minh là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ ( Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa, Ấn, Tây, Mỹ v.v. Chủ yếu là thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp dân cư nhiều sắc thái, đậm cá tính, hơi “ bốc ”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt. Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh theo dạng chung của những thành phố cảng, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng. Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói, ( hoặc uống café đen tiểu ra café sữa ), muốn thế nhớ mặc áo mưa. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng … thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, khi một vị đại sứ cạnh chính quyền sở tại TP HCM sang nhậm chức thì không chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứđi kèm ! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge, trong đó cabote theo tiếng Pháp là … cái áo mưa thứ thật. Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng ( khá giả ) để bắt địa ( kiếm tiền ). Ông chủ quán cafe La Pagode nếu giờ còn sống mà trí nhớ tốt liệu còn vướng mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cafe lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại … đọc sách cả tiếng đồng hồ đeo tay. ? Không đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va lichờ bạn đi kiếm tiền đến … chuộc đó ! Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi … Nhà Bè ( hồi ấy còn rất hoang vu ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng giật mình bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi … ăn chè, dù tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chèra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết. Cũng khoảng chừng đầu những năm 60, TP HCM có một nhà báo chuyên viết bài “ nâng bi ”, ca tụng đám tai to mặt bự, chủ bút một tờ báo do chính quyền sở tại hỗ trợ vốn. Có lẽ vì mặc cảm bị bạn bè dè chừng, nhà báo bỗng nổi hứng viết một bài ngôn từ rõ là “ nâng bi ” nhưng bị ai đó đâm thọc mà thành ra “ bóp dế ”, mà là “ mó dế ngựa ” nên nhà báo bị xộ khám nhốt chung với du đãng. Đã mang thân tù tội, mà còn khoe mẽ nên mới bị bạn tù tẩn cho một trận mất trắng một mảng tóc. Từ đấy “ mông Thẩm Thuý Hằng ” ( diễn viên điện ảnh ) được dành riêng ám chỉ cho cái đầu ông cộng với “ Hít tô phe ” ( hút thuốc phiện ) mà anh có từ trước .

“Dân chơi cầu ba cẳng” khi đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm (100%) .Số là thời chính quyền cũ đó, mỗi khi tình hình an ninh có vấn đề thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Không được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% là hợp nhất! Dân nhậu thấy 100% vừa “đã” vừa hết mình với nhau thế là con số này sống mãi với thời gian. Gặp mồi lạ hoặc mồi chế biến cầu kỳ khoái khẩu, bèn kêu “bá chấy” hoặc “ve kêu”, chẳng ai hiểu thực nghĩa là gì nhưng từ đấy, học sinh bị điểm thấp hay bài khó, người lớn gặp chuyện vui, chuyện buồn “tàn canh bí đao” cũng xài luôn, tiếng lóng vốn là của đám đông mà. Nhậu nhiều lỡ mà lên dầu sốngkhẩn cấp, không kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè.Lúc ấy ai lỡ xài Đức Mã ( đồng mark- ĐM) còn gọi là xài giấy lớn thì hãy coi chừng. Sang tới giới công chức, thời xưa không có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mệt mỏi hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy(đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông”. Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam,chập choạng tối là những cây than (Mỹ đen) hay lảng vảng và đám dắt mối chế ngay ra OK Salem làm ngôn ngữ tiếp thị dù hàng chẳng hề là thuốc lá Salem và dù ngôn ngữ bất đồng nhưng than nghe không hiểu chết liền!.

Đất nước thống nhất, người Sài Gòn làm quen – dĩ nhiên rất nhanh, tiếng lóng mà – những đánh quả, con phe, một vé hai vé, bôi trơn, mắt thứ hai tai thứ bảy, phaov.v. đã trở nên quen thuộc. Ngày nay có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy và cái.. Phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng không? Còn ngày hôm nay thì lô cốtlà biểu tượng của một cách gọi là chống ngập của thành phố.

Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết “ Bỉ vỏ ” – nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng ( chỉ người đàn bà móc túi ) – của cụ đọc thật “ bá chấy ”. Lần tiên phong người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng Đất Cảng : Mõi ( móc túi ) ; kỳ bẽo ( cờ bạc ) ; sò quỷnh ( người nhà quê ) ; đông địa ( nhiều tiền ) v.v. Một dân móc túi thuộc loại thám thính theo dõi một người nhà quê có vẻ như có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như là công khai minh bạch : “ Sò quỷnh đông địa tranh vòm ” ( vào quán ) ! Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là … vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài từ là cùng .

Tiếng Lóng Sài Gòn

(Lê Văn Sâm)

… Có thể bạn chưa biếtMột thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn từ dân gian lại phát sinh ra một số ít tiếng lóng, một số ít thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thành xong trong đời sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời ‘ tiếng lóng ‘ khác đến thay thế sửa chữa. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc đi dạo hay ship hàng điều tra và nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ xác định địa lý và thời hạn .Tỷ như TP HCM vào thập niên 60, thông dụng một chùm tiếng lóng ‘ sức mấy ‘ để thay nói bất lực hay chuyện không hề. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố ” Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám. “Những câu truyện thuộc loại tiếng lóng đó Open vào thời đại TP HCM bị tạm chiếm, Tây – Mỹ nhiễu nhương, quê nhà cuộc chiến tranh buồn chán ; ‘ sức mấy ‘ đã trở thành bút hiệu của một phân mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt ‘ tính tính tè tè, tè ti tè ti té ‘, làm cho đường phố càng rối loạn hơn .

Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng ‘xưa rồi Diễm ơi’, mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.

Thời những vũ trường mới gia nhập Hồ Chí Minh như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng ‘ Cai gà ‘, gọi công an là ‘ mã tà ‘, vì police ( công an ) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành ‘ mã tà ‘. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như : ‘ gác dan ‘ tức thuê người làm bảo vệ ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dan. Cũng như nói ‘ de cái đít ‘ tức lùi xe arriere ; tiền tu dưỡng người Giao hàng tiếng Pháp : pour-bois âm bồi gọi ‘ tiền boa ‘, sau này chế ra là ‘ tiền bo ‘ .Cũng thời Pháp thuộc, TP HCM có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng nhà nước là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là ‘ con cò ‘, còn nếu gọi ‘ ông cò ‘ là chỉ cảnh sát trưởng mấy Q. ở thành phố, gọi ‘ thầy cò ‘ tức là những ông chữa morasse những tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói ‘ cò mồi ‘ là tay môi giới chạy việc, ‘ ăn tiền cò ‘ thì cũng giống như ‘ tiền bo ‘, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới .Thời kinh tế tài chính mới tăng trưởng, đi xe auto gọi là đi ‘ xế hộp ‘, đi xe ngựa gọi là đi ‘ auto hí ‘, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp điện gọi là ‘ xe điếc ‘, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là ‘ đi Cấp ‘, đi khiêu vũ gọi là ‘ đi bum ‘, đi tán tỉnh chị em gọi là đi ‘ chim gái ‘, đi ngắm chị em trên phố gọi là ‘ đi nghễ ‘, gọi chỉ vàng là ‘ khoẻn ‘, gọi quần là ‘ quởn ‘, gọi bộ quần áo mới là ‘ đồ día-vía ‘. Đi chơi bài tứ sắc những bà gọi là ‘ đi xòe ‘, đi đánh chắn gọi là ‘ múa quạt ‘, đi chơi bài mạt chược những ông gọi là ‘ đi thoa ‘, đi uống bia gọi ‘ đi nhậu ‘, đi hớt tóc gọi đi ‘ húi cua ‘. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng chừng 1920 – 1950 gia nhập TP HCM, đó là ‘ đi đầu dầu ‘, tức những chàng trai ăn mặc ‘ đi nghễ ‘ với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là ‘ hết sẩy ‘, quê mùa chậm rãi gọi là ‘ âm lịch ‘, hách dịch tự cao gọi là ‘ chảnh ‘ .Tiền bạc gọi là ‘ địa ‘, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu ‘ khứa lão đa địa ‘ có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là ‘ xù ‘, ‘ xù tình ‘, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là ‘ bắt địa ‘, đánh cắp là ‘ chôm chỉa ‘, tựa như như ‘ nhám tay ‘ hay ‘ cầm nhầm ‘ những thứ không phải của mình .Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người TP HCM gọi là làng ‘ hia mão ‘, có 1 số ít tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi ‘ kép chầu ‘, có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một nguyên do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse phục trang phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì ‘ kép chầu ‘ thay thế sửa chữa vào ngay. ‘ Kép chầu ‘ phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó .Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là ‘ đào thương ‘, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là ‘ kép độc ‘. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh những tòa soạn báo chí truyền thông, đó là ‘ café à la … ghi ‘ tức uống café thiếu ghi sổ …Vào làng báo mà tiếng lóng người Hồ Chí Minh xưa gọi ‘ nhật trình ‘. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là ‘ tin kho tiêu ‘, những loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là ‘ tin chó cán xe ‘, tin quan trọng chạy tít lớn gọi là ‘ tin vơ-đét ‘ vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là ‘ luộc bài ‘, chắp nhiều thông số kỹ thuật khác nguồn ra một bài gọi là ‘ xào bài ‘, truyện tình cảm dấm dớ gọi là ‘ tiểu thuyết 3 xu ‘, những tạp chí tầm trung xoi mói đời tư gọi là ‘ báo lá cải ‘. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là ‘ tin phịa ‘, nhưng trong ‘ tin phịa ‘ còn có hai mảng đồng ý được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là ‘ tin ballons ‘ tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được Open vào đầu tháng tư, gọi là ‘ tin Cá tháng Tư ‘ .Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là ‘ tịch ‘, ‘ hai năm mươi ‘, ‘ mặc chemise gỗ ‘, ‘ đi auto bươn ‘, ‘ về chầu diêm chúa ‘, ‘ đi buôn trái cây ‘ hay ‘ vào nhị tỳ ‘ ; ‘ nhị tỳ ‘ thay cho nghĩa trang và ‘ số dách ‘ thay cho số một … đều tác động ảnh hưởng từ ngôn từ minh họa theo người Hoa nhập cư .

Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là ‘vòng vo Tam Quốc’, ai nói chuyện phi hiện thực gọi là ‘chuyện Tề Thiên’, tính nóng nảy gọi là ‘Trương Phi’. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là ‘Nhạc Bất Quần’ tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là ‘Đoàn Chỉnh Thuần’ tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé…

TP HCM là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa truyền thống bốn phương, nên ngôn từ càng thêm đa dạng và phong phú, trong đó tiếng lóng cũng ‘ ăn theo ‘ mà sinh ra .Thời Mỹ đến thì một tiếng ‘ OK Salem ‘, mà những trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là ‘ sén ‘ hay ‘ chó lửa ‘, dân chơi miệt vườn gọi ‘ công tử Bạc Liêu ‘ còn hiểu được, Hồ Chí Minh Open cụm từ ‘ dân chơi cầu ba cẳng ‘ thì thật không biết do đâu ? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như hình dáng cowboy trong những phim bắn súng, nên mới gọi ‘ dân chơi cầu ba cẳng ‘ ? Đó cũng là lúc những tiếng lóng như ‘ dân xà bát ‘, ‘ anh chị bự ‘, ‘ main jouer ‘ tay chơi sinh ra, chạy xe đua gọi là ‘ anh hùng xa lộ ‘, bị bắt gọi là ‘ tó ‘, vào tù gọi là ‘ xộ khám ‘. Bỏ học gọi là ‘ cúp cua ‘, bỏ sở làm đi chơi gọi là ‘ thợ lặn ‘, thi hỏng gọi là ‘ bảng gót ‘. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó ‘ đi ăn chè ‘ trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô .Cũng có 1 số ít tiếng lóng do nói lái mà ra như ‘ chà đồ nhôm ‘ tức chôm đồ nhà, ‘ chai hia ‘ tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với ‘ cưa đôi ‘. Lóng thời sự loại này có ‘ tô ba lây đi xô xích le ‘ tức Tây túi balo đi xe xích lô. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than ‘ buồn như chấu cắn ‘, hay có người than phiền vì câu tránh mặt nghĩa vụ và trách nhiệm với hai tiếng ‘ lu bu ‘ để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm ‘ lu xu bu ‘ nại nguyên do không rõ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc 1 số ít âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người TP.HN vào Nam rồi trở thành gia tài chung của người Việt. Bắt quả tang thành ‘ quả tó ‘, gọi chiếc xe Honda là ‘ con rim ‘, gọi tờ giấy 100 USD là ‘ vé ‘, đi ăn cơm bình dân gọi là ‘ cơm bụi ‘, xuống phố đi dạo gọi là ‘ đi bát phố ‘, gọi người lẩm cẩm là ‘ dở hơi ‘ …Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà TP HCM nay có một tiếng lóng tân tiến thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng quán ăn theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của ‘ không – ai – mời – ai ‘. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn truyền thống nhưng ứng xử là tự do. Vào thời văn minh tân tiến, ngôn từ tiếng Anh trở thành phổ cập, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, những cô nói ‘ lemon question ‘ tức chanh hỏi – chảnh – ( mở ngoặc : hoặc nói chệch đi : lê-mông-wét-trần ! )

Chuyện “Cái giọng Sài Gòn”

( Hải Phan )Sinh ra và lớn lên ở Hồ Chí Minh, trong đầu lúc nào cũng có một dự tính là sẽ “ thở đều ” trên mảnh đất ồn ào này, dự tính đó chắc sẽ giữ mãi cho đến lúc một ngày nào đó bí mật không bứt rứt cắn tay áo mà mỉm cười he he he XXX xuống dưới ấy … Gọi là yêu Hồ Chí Minh thì có phần hơi quá ! Không dám gọi thứ tình cảm dành cho Hồ Chí Minh là tình yêu, nó chưa thể đạt đến mức ấy. Cái tình với TP HCM là cái tình của một thằng ăn ở với Hồ Chí Minh hơn 20 năm, cái tình của một thằng mà với nó, TP HCM còn quá nhiều điều níu kéo, quá nhiều chuyện để mỗi khi bất chợt nghĩ về Hồ Chí Minh, lại thấy nhơ nhớ, thân thiện …Hồi còn đi học, vẫn hay chọc mấy đứa bạn bằng 2 câu thơ nhại :

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Gái Sài Gòn cái mỏ cong cong

Chuyện con gái TP HCM ” mỏ ” có cong không thì hông biết, chỉ biết con gái TP HCM có cái dẫu môi cong cong dễ làm chết người lắm, nhất là khi cánh môi be bé ấy cong lên một chữ ” hônggg … ” khi đứa con trai rủ rê đi đâu, năn nỉ gì đó. Lúc đó, lấy gương ra soi, chắc cái mặt của đứa con trai đó tội lắm .Mà con gái Hồ Chí Minh có điệu đà, õng ẹo chút thì mới đúng thiệt là con gái Hồ Chí Minh. Ai mà chẳng biết vậy. Gọi đó là cái duyên ngầm của người con gái đất Gia Định cũng chẳng có gì sai. Ai hiểu được sẽ thấy sao mà yêu mà thương đến vậy …Có dạo đọc trong một bài viết về Hồ Chí Minh – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng TP HCM, cũng như văn hóa truyền thống và con người TP HCM là một sự trộn lẫn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm địa phương, những người khách Hoa, những người miền Trung tiên phong đến đất Gia Định … Từ đó hình thành một loại ngôn từ vừa địa phương, vừa vay mượn của những người đi mở đất …Giọng người Hồ Chí Minh được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người TP. Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không trộn lẫn, không bị cải biến đi qua thời hạn. Như nói về giọng chuẩn của người Thành Phố Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người TP.HN trò chuyện rất hay và “ điêu luyện ”. Cái “ điêu luyện ” ấy như thuộc về thực chất của người TP.HN mà chỉ người TP.HN mới có được. Nếu nói là người Nước Ta nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Thành Phố Hà Nội là “ nói như hát ” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế … Người Hồ Chí Minh thì khác, giọng Hồ Chí Minh cũng khác. Không ngọt ngào … mía lùi như 1 số ít người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Hồ Chí Minh cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “ thành thị ” đầy tự tôn của người TP HCM, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Hình như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Hồ Chí Minh phù hoa trong nhịp sống, trong thay đổi và tăng trưởng, thì giọng nói của người Hồ Chí Minh cũng trở nên “ cao sang ” hơn. Dù vậy, có cái “ thanh ” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ .Giọng người TP HCM nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người TP HCM trò chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại thông minh, thuận tiện nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Thành Phố Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng … Mà điều đặc biệt quan trọng trong cách người Hồ Chí Minh trò chuyện cùng nhau là mấy từ “ nghen, hen, hén ” ở cuối câu … Người miền khác có khoái, có yêu người Hồ Chí Minh thì cũng vì cách dùng từ “ nghen, hen ” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “ Thôi, tôi dìa nghen ! ” – Chủ nhà cũng cười “ Ừ, dzậy anh dìa hen ! ”. Nói chuyện điện thoại cảm ứng đã đời, để kết câu truyện và cúp máy, một người nói “ Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen ! ” “ thôi ” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm hết gì đó. Hai đứa bạn chuyện trò cùng nhau, phát hiện cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “ Hay hén mậy ? ” bằng giọng điệu tự do …Giọng người Hồ Chí Minh nhiều lúc diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “ Dzui dzữ hen ! ”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui tươi “ Dzui dzữ hen ! ” … Người Hồ Chí Minh có thói quen hay “ đãi ” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “ Hay dzữuuu ”, “ Giỏi dzữưưu … ! ” Nghe người TP HCM chuyện trò, trong cách nói, phát hiện “ Thôi à nghen ” “ Thôi à ! ” khá nhiều, như một thói quen và cái “ duyên ” trong giọng TP HCM .Người Hồ Chí Minh trò chuyện, không phát âm được 1 số ít chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “ d, v, gi ” cũng như người TP. Hà Nội phát âm lẫn những từ có phụ âm đầu “ r ” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng TP HCM mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người TP HCM không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “ d, v, gi ” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng TP HCM. Ví như nói “ Đi chơi dzui dzẻ hen mậy ! ” thì người Hồ Chí Minh nói nó … thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “ Đi chơi vui tươi hen ! ”. Nói là “ vui tươi ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm xúc nó ngường ngượng miệng làm thế nào đó. Nghe một người TP HCM phát âm những chữ có phụ âm ” v ” như ” về, vui, vườn, võng ” nó cảm xúc sao sao á, không đúng là giọng Hồ Chí Minh chút nào …

Nhìn lại một quãng thời hạn hơn 300 năm hình thành và tăng trưởng của TP HCM từ Phiên Trấn, Gia Định Trấn, Gia Định Thành, Phiên An, Gia Định Tỉnh … cho đến Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh, dân TP HCM đã là một tập hợp nhiều dân tộc bản địa sinh sống như Việt, Hoa, Kh’mer … Các sử sách xưa chép lại, khi người Việt mở màn đến Đồng Nai – Gia Định thì người Kh’mer đã sinh sống ở đây khá đông, rồi tiếp đó là người Hoa, và 1 số ít người tộc láng giềng như Malaysia, Indonesia ( Java ) cũng xuất hiện. Sự hợp tụ này dẫn đến nhiều sự giao thoa về mặt văn hóa truyền thống, làm ăn, cũng như những mặt khác của đời sống, trong đó đương nhiên phải nói đến ngôn từ .Tiếng nói của người Hồ Chí Minh không chỉ thuần là tiếng Việt, mà còn là sự học hỏi, vay mượn nhiều từ ngữ của dân tộc bản địa bạn, đâm ra mang nhiều “ hình ảnh ” và “ sắc tố ” hơn. Những từ như “ lì xì, thèo lèo, xí mụi, cũ xì … ” là mượn, những từ như “ xà quầng, mình ên … ” là của người Kh’mer. Nói riết đâm quen, từ từ những từ ngữ đó, những lời nói đó được người dân TP HCM sử dụng một cách tự nhiên như của mình, điều đó chẳng có gì lạ … Thêm vào đó, nó được sửa đổi nhiều cho tương thích với giọng Hồ Chí Minh, thành ra có những nét đặc trưng riêng .Vậy nói cho cùng thì người TP HCM cũng có những tiếng gọi là “ tiếng địa phương ” ( local dialect ! ? ). Những tiếng này bộc lộ rõ nhất khi người Hồ Chí Minh trò chuyện cùng người miền khác. Nghe một người TP HCM trò chuyện cùng một người khác vùng, thuận tiện nhận ra những độc lạ trong lời ăn lời nói giữa hai người, hai miền. Có một số ít từ người TP HCM nói, người miền khác nghe rồi … cười vì chưa đoán ra được ý. Cũng như khi nghe người Huế dùng 1 số ít từ lạ lạ như “ o, mô, ni, chừ, răng … ” trong khi trò chuyện vậy thôi. Khác là mấy tiếng người TP HCM nói, vẫn có chút gì đó nó … vui vui tai, là lạ, ngồ ngộ làm thế nào .Người TP HCM nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ ” dạ ” khi chuyện trò, khác với người miền Bắc lại dùng từ ” vâng “. Để ý sẽ thấy ít có người TP HCM nào nói từ ” vâng “. Khi có ai gọi, một người Hồ Chí Minh nói ” vâng ! ” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi trò chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ ” dạ ” vào mỗi câu nói. ” Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa ! ” ; ” Mới dìa / dzề hả nhóc ? – Dạ, con mới ! ” … Cái tiếng ” dạ ” đó, không biết sao trong cảm xúc nghe của một người TP HCM với một người TP HCM thấy nó ” thương ” lạ … thoải mái và dễ chịu mà thân mật, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng ” dạ ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay …Một người miền khác, hoàn toàn có thể là Bắc hoặc Trung, miêu tả một khoảng chừng thời hạn ngắn vài ngày thì nói “ Từ bữa đó đến bữa nay ”, còn người TP HCM thì nói “ Hổm nay ”, “ dạo này ” … người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. ( Lại phát hiện thêm một điều là người Hồ Chí Minh hay dùng từ “ ghê ” phía sau câu nói để diễn đạt một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ ghê ” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “ nhiều ”, là “ lắm ”. Nói “ Nhỏ đó xinh ghê ! ” nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy. ) Lại so sánh từ “ hổm nay ” với “ hổm rày ” hay nghe ở những vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không trọn vẹn giống nhau. Nghe người Hồ Chí Minh dùng 1 số ít từ “ hổm rày, miết … ” là người TP HCM bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người TP HCM vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà .Nghe một đứa con trai Hồ Chí Minh nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem … ” Nhỏ đó xinh lắm ! ”, “ Nhỏ đó ngoan ! ” … Tiếng “ nhỏ ” mang ý nghĩa như tiếng “ cái ” của người TP. Hà Nội. Người TP HCM gọi “ nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên ” thì cũng như “ cái Thuý, cái Uyên, cái Lý ” của người Thành Phố Hà Nội thôi .Nói một ai đó lờ đờ, người Hồ Chí Minh kêu “ Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề … nhìn phát bực ! ” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “ Ê, nhóc lại nói nghe ! ” hay gọi người bán hàng rong “ Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi ! ” … “ Ê ” là tiếng Hồ Chí Minh đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, hoàn toàn có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Hồ Chí Minh. Mà người TP HCM cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “ quên ” mất từ “ bán ”, chỉ nói là “ cho chén chè, cho tô phở ” … “ cho ” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Hồ Chí Minh trò chuyện với nhau, thường phát hiện thế này “ Lấy cái tay ra coi ! ” “ Ngon làm thử coi ! ” “ Cho miếng coi ! ” “ Nói nghe coi ! ” … “ Làm thử ” thì còn “ coi ” được, chứ “ nói ” thì làm thế nào mà “ coi ” cho được nè ? Vậy mà người TP HCM lại nói, từ “ coi ” cũng chỉ như là một từ đệm, dân TP HCM nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Hồ Chí Minh trò chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “ mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ? ” – Mà “ dzậy ta ” cũng là một thứ “ tiếng địa phương ” của người Hồ Chí Minh à. Người TP HCM có thói quen hay nói “ Sao kỳ dzậy ta ? ” “ Sao rồi ta ? ” “ Được hông ta ? ” … Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà … hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như thể nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà .Tiếng TP HCM là thế đó, nếu bạn giả giọng Hồ Chí Minh trò chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng TP HCM riêng riêng này thì đúng là … “ bạn hông biết gì hết chơn hết chọi ! ”Mà giọng Hồ Chí Minh đã thế, cách người TP HCM xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang “ sắc tố ” riêng .Người TP HCM có cái kiểu gọi “ Mày ” xưng “ Tao ” rất “ ngọt ”. Một vài lần gặp nhau, trò chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Saigon mày tao liền. Nếu đúng là dân TP HCM, hiểu người TP HCM, yêu người Hồ Chí Minh sẽ thấy cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô mà còn rất ư là thân thiện và thân mật .Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bè bạn của người Hồ Chí Minh. Cách xưng-hô này thấy giàn trải từ đủ những mối quan hệ bè bạn ; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi. Hổng biết cái máu dân TP HCM nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách gọi này nó … tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như ” cậu cậu – tớ tớ ” của miền Bắc. Nói chuyện bè bạn với nhau, thân thiện mà gọi mấy tiếng mày mày tao tao thì nghe thật sướng, thật tự do tự nhiên, và khoai khoái làm thế nào ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân TP HCM .Đấy là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy “ tụi nhỏ ” sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng “ con ” ngọt xớt. Có vẻ như người Hồ Chí Minh ” ưa ” tiếng chú, thím, dì, cô hơn ; cũng như đa số dân miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ rằng cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước đạt tuổi của người đối lập. Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì ” Dì ơi dì … cho con hỏi chút … ! ” – còn lớn hơn thì đương nhiên là ” Bác ơi bác … ” rồi. Những tiếng mợ, thím, cậu, … cũng tuỳ vào vai vế và người đối lập mà gọi. Có người chẳng bà con quen thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím. Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng “ con ” chứ không phải “ cháu cháu ” như 1 số ít vùng khác. Cái tiếng “ con ” cất lên nó tạo cho người nghe cảm xúc khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng … gần xịt lại. Nghe sao mà quen thuộc, và thân mật đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có tình cảm liền .Nói tiếp chuyện xưng-hô, người Hồ Chí Minh có kiểu gọi thế này :

Ông đó = ổng

Bà đó = bả

Anh đó = ảnh

Chị đó = chỉ

…..

Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở nên giữ vai trò quan trọng … ngộ nghĩnh vậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông ? Gọi vậy mới đúng là chất Nam Bộ – Hồ Chí Minh á nghen .Người TP HCM cũng có thói quen gọi những người trong họ theo … số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm … Mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào. Thành ra có cách gọi : chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng …Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng ” anh-chị-em ” đôi lúc được … giản lược mất luôn, trở thành ” Hai ơi Hai, em nói nghe nè … ” và ” Gì dzạ Út ? ” … Tôi thích cách gọi này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện nhờ là cứ ” Út ơi … con nhờ chút ! ” hoặc với mấy chị tôi thì ” Hai ơi Hai … em nói nghe nè ! ” .Cách gọi này của người Hồ Chí Minh nhiều khi làm người miền khác nghe hơi … rối. Có lần, kể cho người bạn ở TP.HN nghe về mấy người anh chị trong mái ấm gia đình. Ngồi kể lể ” anh Hai, chị Hai, dì Hai, Út, cậu Hai, mợ Hai, chú Ba … ” một hồi cái bị kêu là hổng hiểu, xưng hô gì rối rắm quá chừng, làm phải ngồi lý giải lại suốt một hồi … lâu .Cách xưng hô của người TP HCM là vậy. Nghe là thấy đặc trưng của cả một mảnh đất miền Nam sông nước .Cứ thế, không sang chảnh, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng chững lại, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Hồ Chí Minh đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Hồ Chí Minh lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào, bằng cái chân chất ngay thật của truyền thống cuội nguồn rất lâu rồi, và bằng cả cái “ chất TP HCM ” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Hồ Chí Minh. Đi đâu, xa xa TP HCM, bỗng dưng nghe một tiếng “ Dạ ! ” cùng những tiếng “ hen, nghen ” lại thấy đất Hồ Chí Minh như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương …

Tản mạn Sài Gòn.

Sài Gòn đối với đa số dân Sài Gòn gạo cội không phải là “thành phố 10 mùa hoa”, “thành phố mang tên Bác”, hay thành phố cay cú “tôi mất người như người đã mất tên”, …

TP HCM hiền lành hơn thế nhiều. Dân TP HCM vốn vẫn lạnh nhạt với chính trị, nhất là thứ chính trị Salon vô bổ, nhiều lời lẽ, thiếu tính thực tiễn .Dân Hồ Chí Minh đúng thương hiệu ” con nai vàng ” chẳng khi nào gọi Hồ Chí Minh là thành phố Hồ Chí Minh. Không nhất thiết là vì nguyên do chính trị. Thằng Tí thằng Tèo trong mắt bà ngoại trăm năm vẫn là thằng Tí thằng Tèo, bất kể vị thế xã hội của nó là gì. Tôi có chuyện trò với vài bạn trẻ ở miền Bắc mới sang Mỹ, nghe họ dùng ” thành phố Hồ Chí Minh ” để nói đến TP HCM, thấy quai quái thế nào ấy, dù tôi chẳng có nguyên do gì chính đáng .* * *Hồ Chí Minh, dù trong thời đại khó khăn vất vả nhất, vẫn như một cô tiểu thư đài các : đỏng đảnh đôi chút mà dễ thương và đáng yêu thiệt nhiều .Nhắc đến TP HCM người ta hay nhắc đến mưa, nhưng tôi lại nhớ dai dẳng cái nắng nóng bức của nó .

Nhà tôi ở một con đường nhỏ. Trưa hè đặt cái “lưng dài vai rộng” xuống nền gạch bông mát lịm, ngắm bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ hiu hiu, thì không có nơi nào trên quả đất này cho cảm giác thanh bình hơn.

“Một ngõ vắng xôn xao

Nằm trong lòng phố lớn …”

Khác với Thành Phố Hà Nội, khoảng trống TP HCM rất thoáng, chí ít là cách đây hơn 15 năm. Không gian của một buổi trưa hè hiu gió còn thoáng hơn vạn lần. Tôi luôn có cảm xúc mình hoàn toàn có thể bay bổng lên, thò tay với cụm mây bồng bềnh trêu ngươi .Tuy thoáng, khoảng trống TP HCM không khi nào làm ta cảm thấy lạc lõng. Những tiếng rao thi thoảng của người bán dạo nghe nao nao, cuộn cả buổi trưa hè thành một miếng bột bánh bèo trắng phau với ít đậu xanh, mỡ hành, nước mắm đường ngọt lịm .Từ ve chai, bánh bao chỉ, chè đậu xanh bột báng nước dừa, kẹo kéo, tàu hủ, đến mì gõ, … đều có nguời mang đến tận cửa. Có rất nhiều tiếng rao mà đến giờ đây tôi vẫn không hiểu nghĩa, nhưng nghe cái cung nhạc ấy thì biết ngay là họ bán cái gì .Người TP HCM cũng thoáng như khoảng trống Hồ Chí Minh vậy ! Không đâu hoàn toàn có thể dễ có nhiều bạn, và bạn không tồi, như ở Hồ Chí Minh. Không chỗ nào trên đất Nước Ta người ta sống năng động và khoáng đạt hơn ở TP HCM .

* * *Trước khi bàn chuyện ” người lớn ” này, xin mạn phép quay lại chuyện thằng Tí thằng Tèo .Ðối với một thằng Tèo TP HCM chính gốc con nhà nòi thì TP HCM đương nhiên là ” bự ” hơn một buổi trưa hè .TP HCM là những chiều tụ tập bấm chuông nhà người ta, cho đến khi nghe chửi ” D.M. tụi bai con cháu nhà ai mất dại bấm chuông wài dzậy ” thì mới chịu vắt giò lên cổ chạy .Hồ Chí Minh là những hồ bơi Lao Ðộng, Chi Lăng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là mấy củ khoai mì nóng giãy với dừa nạo, là nước mía lạnh, là ốc dích ốc táng, là bắn bi ca-de với những câu đồng dao khó hiểu như thần chú : ” lang cang báng dội ăn tiền “. Nói sai hay nói thiếu một chữ là đánh nhau chí tử để rồi ngày mai lại càu nhàu chơi tiếp .Hồ Chí Minh là những buổi tối cúp điện, tụ họp ca hát hay vừa bồn chồn vừa thú vị nghe và kể chuyện ma như chính mắt mình thấy ngày hôm qua .TP HCM là những con diều làm đi làm lại, treo thêm cả vài cái lưỡi lam để cắt dây diều khác ; là dế hộp quẹt thổi phù phù ” đá bắt xác ” ; là chùm ruột chua ngọt, những cùi thơm, cóc ổi ngâm cắm que cà rem ” đa năng ” không biết đã được dùng lại bao nhiêu lần .Lớn lên một tí, Hồ Chí Minh là cô bé bồn chồn chờ thằng Tèo hái cho cả cành phượng về ép làm bướm ; là hàng điệp trải thảm vàng rực ở trường đại trà phổ thông ; là quán cafe từng buổi đón em về .Xin trích đoạn một bài hát tôi viết đã lâu, đặt tên ( rất tự nhiên ) là ” Lâu Lâu ” :

“Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa

Buổi trưa thường hái trộm me

Thằng leo, thằng đứng làm thang …



Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa

Phượng cao mấy cũng trèo lên

Chỉ vì cô bé mắt tròn xoe, … mắt tròn xoe”

Dĩ nhiên, cô bé mắt tròn xoe của tôi vẫn đang ở … TP HCM .Hồ Chí Minh đáng yêu lắm ! Nó đơn thuần và khoáng đạt, không khi nào cần cái văn vẻ ” màu mè ba lá hẹ “, không cần những tâm lý tự tôn ra vẻ triết gia hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác quan điểm .

* * *Hồ Chí Minh còn là thành phố của sự trái chiều : giữa những biệt thự cao cấp kín cổng cao tường và đám nhà ổ chuột trên kênh hôi hám ; giữa văn minh đô thị và những tiếng chửi thề ; giữa sự ồn ào bụi bặm bụi bờ và khoảng trống im lắng thanh tao. Nổi bật hơn tổng thể là sự phong phú vô cùng của con người Hồ Chí Minh. Ðặc biệt là họ không sống ” như đã từng được sống “, mà luôn ” sống như chưa được sống khi nào ” .* * *Ân mình sau những hàng bông giấy, dây thủy tiên chói đỏ, là những ngôi biệt thự nghỉ dưỡng khi nào cũng kín cổng. Không ai biết những người sống trong đó làm gì, là ai, và cũng chẳng ai thật sự chăm sóc … ngoại trừ bọn thằng Tí thằng Tèo .Bọn nhóc chúng tôi thường có rất nhiều những thần thoại cổ xưa về những người sống trong mấy ngôi nhà ấy .Ơ đầu ngõ nhà tôi cách đây khoảng chừng 20 năm có một ngôi nhà như vậy, chỉ hơi khác là hai cánh cửa sắt to đùng lại thấp lè tè. Mỗi chiều có một chàng trai vác ghế đẩu cao ngồi tì tay lên cửa trông ra đường. Gã chẳng khi nào cạo râu cắt tóc. Mặc dù nắng chiều rạng rỡ xóa bớt phần nào sự ma quái, bọn tôi vẫn chẳng dám đến gần gã. Người ta có rất nhiều ” triết lý ” khác nhau về gã : nào là tình nhân bỏ đi Mỹ, bị công an lấy mất gia tài, vân vân và vân vân. Cuối cùng hình như hắn chỉ giả điên để trốn nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược. Ðến khi hết tuổi người ta thấy hắn cạo râu, cắt tóc ngắn chờ ngày xuất cảnh .Dù gì thì gì, những ngôi biệt thự nghỉ dưỡng hạng sang vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho hàng tỉ câu truyện mê li rùng rợn bọn tôi truyền miệng mỗi tối cúp điện .Chỉ cách những tòa thành tháp ấy vài trăm mét là một xóm lao động nghèo với những ” thần thoại cổ xưa ” kiểu khác hẳn : thần thoại cổ xưa về những ” anh hùng ” du đãng như trong tiểu thuyết Duyên Anh. Có lần một trong những anh hùng nổi tiếng nhất ” xóm Chùa ” mang dao đứng giữa ngã Năm thách đấu công an phường. Cuối cùng một anh công an nhảy vào đánh tay đôi với hắn và buộc phải dùng súng hạ gã .Ði thêm khoảng chừng trăm mét nữa là đến con rạch thúi hơn cầu tiêu công cộng ở Ðại Học Bách Khoa tỉ lần. Vậy mà tôi vẫn từng đi câu cá bống, vớt trùng chỉ với lũ bạn. Câu cả ngày được 2 con cá nhỏ hơn ngón tay út. Chỉ có trùng chỉ là lần nào cũng vớt được rất nhiều, làm mấy con cá Tàu nhà tôi ăn sình bụng bơi lặc lè kéo theo dây phân dài cả thước .” Xóm ” tôi có khá nhiều nhà có piano. Chiều chiều nghe lũ nhỏ tập từ Methode Rose, Hannon đến Classic 3, từ sòn đô sòn đến Tempest. Lẫn vào trong đó luôn là tiếng chửi thề của bà Tư nhà bên cạnh. Có lẽ chẳng có món ” xí quách ” nào … xí quách hơn sự pha tạp của hai loại âm thanh ấy .Buổi chiều ở TP HCM trái chiều hẳn với buổi trưa yên tĩnh. Hình như cái dìu dịu của nắng ấm làm người ta có nhiều nguồn năng lượng hơn. Chí ít là bà Tư lúc nào cũng có thừa nguồn năng lượng vào buổi chiều. Bà chửi từ ông Tư tới thằng con mất dạy. Ỏng Tư thì chẳng nói lại nhiều lời trừ khi mới nhậu xong. Chai rượu đế gò đen ( chứ hổng phải ổng ) vác dao bửa củi gí vào cổ bà vợ to béo, gã con trai thì vừa can vừa … đục luôn ông già, trong lúc đó tiếng Tempest vẫn vang vang ngắt quãng .Ðiểm lạ ( ! ? ) nhất là tiếng Tempest vài năm sau biến mất, còn vợ chồng ông bà Tư vẫn sống ” vui tươi ” với nhau như vậy …* * *Tính trái chiều của Hồ Chí Minh rõ nét nhất là vào buổi tối. Người ta đã viết rất nhiều về ” Hòn Ngọc Viễn Ðông ” và tính phân loại giai cấp khắc nghiệt của nó. Ðó là trước 75. Sau giải phóng cái thương hiệu Hòn Ngọc Viễn Ðông bị Bangkok cướp mất, nhưng tính trái chiều của Hồ Chí Minh chẳng ai cướp nổi .TP HCM không khi nào ngủ. Khoảng 9, 10 giờ đêm là những vũ trường khởi đầu hoạt động giải trí. Bọn con nhà giàu tí tởn hẹn hò dream, LA, su 100, quần xẻ, váy cao, phóng vù vù qua những đường Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Hàm Nghị … sau đó vọt đi mấy cái Discoteques vang bóng một thời như Thái Sơn, Cadillac, Queen Bees, …Phong trào đua xe thì Hồ Chí Minh luôn đi đầu. Thủa chưa có nhiều xe gắn máy thì bọn choai choai đã màn biểu diễn đi xe đạp điện một bánh xoay mòng mòng hàng đêm trước nhà hát lớn. Ðến khi có xe gắn máy nhiều rồi thì cả đội ” Bồ Câu Trắng ” cũng chẳng bị ai ngán. Hơn nữa bị giam xe thì một bữa chân gà rút xương ở Hàm Nghi là lấy xe ra cái rụp .Khuya hơn nữa thì gái ” Ca Ve ” tràn về những quán cơm tấm, mì xe để ” đá đèn ” ( ăn đêm ). Bọn ” dân quậy ” gồm có lũ nhóc mới lớn lẫn dân giang hồ thứ thiệt cũng tham gia đá đèn hô hào đến 3, 4 giờ sáng .Cùng khi đó những em nhỏ bán vé số cũng hoạt động giải trí cật lực. May mà vớ phải dân chơi trúng quả nó mua cả cọc thì ngày mai không phải lo tiền ăn. Cựu chiến binh, thương phế binh thì vác đàn hát ” Phố Ðêm “, cay đắng xin từng đồng của lũ nhỏ mặt búng ra sữa chưa khi nào hiểu hai chữ ” mất mát ” nghĩa là gì .Ðến 3, 4 giờ sáng, khi lũ dân chơi đã trọn vẹn mệt lử lũ lượt ra về, thì dân lao động mở màn một ngày mới. Xích lô, ba gác chở rau thịt ra chợ bán. Các lò bánh mì khởi đầu xay bột trét bơ nướng bánh thơm lừng. Mấy chị bán cafe vỉa hè cũng mở màn đun nước, pha cafe vợt cho gã xích lô mới tỉnh ngủ mắt vừa nhắm vừa mở vừa tán tỉnh .Mùi mồ hôi lẫn với mùi bơ, mùi men, mùi khói SU-100 dần biến, quyện với mùi không khí ẩm mát tinh sương tạo ra ” mùi Hồ Chí Minh ” buổi sáng ở những thành phố chợ rất đặc trưng .* * *Dân Hồ Chí Minh ” quái chiêu ” lắm, khi nào cũng than thiếu tiền, nhưng không sống tằn tiện khi nào ! Họ hào hiệp với bản thân và bè bạn ; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền .Nhiều người bảo tôi rằng dân Nam Bộ được vạn vật thiên nhiên tặng thêm, sống ngày hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống thoáng rộng hơn dân miền Trung và miền Bắc .Có lẽ đúng. Nhưng còn cái gì đó hơn thế nữa ! Kiểu ăn xài ” xả láng sáng dậy sớm “, dù nghèo rớt mồng tơi, có vẻ như ăn vào máu của dân Hồ Chí Minh, ăn vào không khí họ thở hàng ngày, ăn cả vào cái văn hóa truyền thống hổ lốn cẩu xực của họ. Dĩ nhiên để ăn xài thì tiên phong phải kiếm ra tiền .Kiếm tiền thì có lẽ rằng không đâu có nhiều cách như TP HCM .Trong thời còn ăn bo bo, gạo tổ đỏ lòm, thời dân TP.HN còn ganh nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường tiêu chuẩn, thì dân TP HCM đã khởi đầu nuôi heo lậu, quấn thuốc lá TP Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây ” bột năng ” đầy ngoài chợ … Hiển nhiên một phần là do lợi thế xa ” TW “, nhưng phần chính là do dân Hồ Chí Minh sống rất ” năng động ” .Những năm 79, 80 mà thấy anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi lấm lét ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là hắn buôn thuốc Tâỵ Sau khi chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu biến thành cái chợ trời tiên phong của Hồ Chí Minh sau 75. Ỏi thôi thì quần zin áo pun, đồ Mỹ lẫn đồ chợ Lớn, nhà bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp, … Ơ Hồ Chí Minh cái gì bán được là có người bán. Ðừng hòng mà mua được đồ xịn nếu mà không quen biết hay hiểu biết. Nhiều người tự thị là ” rành ” nhất bị lừa mà vẫn còn mừng quýnh. Ðó là chưa nói đến Ngân sách chi tiêu trời ơi. Tôi thường tự hỏi ai cũng bán hết thì lấy ai ra mà mua ? Tiền đâu ra mà mua ? Thế mà chợ khi nào cũng đông. Ðúng là TP HCM !Nếu không thích cảnh chợ búa ” gần mực ” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa tối thiểu hai lần một ngày, sợ hôi thì ít, mà sợ công an phát hiện thì nhiều. Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe ba gác đến chở. Bọn lái heo lậu giết heo còn giỏi hơn công nhân chuyên giết-mổ heo ở xí nghiệp sản xuất Cầu Tre sau nàỵ Chích điện con heo chỉ kêu cái ” éc ” là chết ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất độ mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo tươi bán ở chợKhi xí nghiệp sản xuất nước đá TP HCM chưa sinh ra thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá. ” Cho con 2 cục đi dì ơi ! ” là câu cửa miệng trưa hè của dân Hồ Chí Minh. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ vừa phải có tiêu chuẩn. Mua cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho những quán cafe vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho mái ấm gia đình là giỏi .Người ta còn buôn cả những thứ tưởng chừng như chẳng có người mua vào thời đó như pho mai Liên Xô thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lã và cồn …Ðến giữa và cuối thập niên 80 thì thời cơ kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học viên nghèo thì đi dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Ảu, buôn thuốc lá Campuchia, mua và bán xe gắn máy kiếm vài hướng dẫn ” ghệ ” đi chơi dễ như bỡn. Bọn Tèo kinh doanh thương mại còn buôn cả đất đai, làm kiến thiết xây dựng kiến tiền tỉ khi còn chưa ra trường. Không nhất thiết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai !Kể cả những thầy dạy luyện thi ĐH cũng biết làm ăn ra trò : xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang nổi tiếng cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ .Các chị những cô khéo tay thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa, kem chuối tăng thu nhập mái ấm gia đình .Ðừng tưởng dân TP HCM chỉ lo làm ăn không đọc sách. TP HCM có vài trăm tiệm sách cũ mà dân nghiền sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước giải phóng, chưởng Kim Dung, đến hình ảnh sách báo khiêu dâm của Mỹ, HongKong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant, và mọi loại truyện ngắn, dài, tiểu thuyết nội ngoại, đều có cả .Nhân chuyện buôn thuốc, tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn hai cây thuốc Zet bị bắt tịch thu luôn cả cái xe dream. Rõ là ngu ! Thằng cu phá phách kinh điển, nhưng cũng vui tính ra phết. Có lần ngồi uống cafe hắn bảo cô bán hàng : ” Liên ơi cho anh mượn sợi dây thung. ” – ” Chi dzậy anh ? “, Liên hỏị Nó bảo : ” để anh thắt ống dẫn tinh “. Cô bé mặt đỏ lừ không biết có bỏ cái gì vào ly cafe của nó không .

***

TP HCM là thế đấy, muôn người muôn mặt, phong phú vô cùng !Dù phần nào bị đời sống sôi sục cuốn trôi, Hồ Chí Minh vẫn có nhiều thằng Tèo mộng mơ làm thơ viết truyện dễ thương và đáng yêu khôn tả : làm ăn tay phải, văn nghệ tay trái. Hình ảnh con Thơm cái Thắm hàng me gốc điệp không khi nào phai nhạt trong mắt bọn Tèo Hồ Chí Minh .

Tôi vẫn còn nhớ Tèo Nguyễn Nhật A’nh với “cô gái đến từ hôm qua”, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ tích dành cho người lớn” …

“Lòng em như chiếc lá khoai

Ðổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu …”

Hay Tèo Bùi Chí Vinh:

“Cô gái ơi anh nhớ em,

Như con nít nhớ cà rem vậy mà

Như con dế trống đi xa,

Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi

Con dế thường gáy một hơi,

Còn anh gáy hết … một thời con trai, …”

Ðến đây tôi chợt nhận ra rằng viết về ” một thời để nhớ “, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất dễ, dễ đến mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng ” xổ nho ” được vài dòng .Khi viết cái gì ít vô thưởng vô phạt hơn một chút ít thì phải khởi đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em …Tôi đã định dừng ở đây vì câu truyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng bắt đầu của bạn đọc, nếu có, chắc cũng không còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng chẳng thể để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng về một TP HCM với hai cây thuốc Zet, tôi lại phải tìm cách khác để kết thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Zet là mấy .* * *Nếu phải so sánh TP HCM với Thành Phố Hà Nội ví dụ điển hình, thì ta hoàn toàn có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ôi đào TP. Hà Nội thơm lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng dính, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ôi Hồ Chí Minh to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại hoàn toàn có thể chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt nghe qua là chảy nước miếng .Con gái Hồ Chí Minh cũng vậy, nghe qua là … chảy nước miếng .Con gái TP HCM đáng yêu và dễ thương lắm ! Họ có cái nhìn trong trẻo về đời sống, lại chẳng giận dai vùng vằng vô lý khi nào. Ði đón trễ thì : ” anh để em chờ nãy giờ đó coi có được hông ? Ghét dễ sợ luôn hà ! ” Cộng với một cái lườm, hai cái nguýt thì bọn Tèo Hồ Chí Minh hối hận quá cả 2 tháng sau mới … trễ lần nữa .Con gái TP HCM rất biết ăn mặc, đi đứng. Tiền hoàn toàn có thể thiếu chứ phong thái tiểu thư thì chẳng thiếu khi nào. Tiểu thư TP HCM không ưỡn ẹo mè nheo, mà phóng xe vèo vèo đứng tim Tèo .

Giọng gái Sài Gòn thì ngọt hơn mía lùi. Cái câu “hổng chịu đâu” mà nghe dân xứ khác nói thì ngứa lỗ nhĩ, nghe con gái Sài Gòn nói thì bọn Tèo Sài Gòn như bong bóng xì hơi, biểu cái gì cũng nghe ráo trọi. Con gái Sài Gòn lãng mạn chẳng kém ai, nhưng cũng rất thực tế. “Ðược thì được hổng được thì thôi, làm chi mà dzữ dzậy!”

Hồ Chí Minh là vậy đó, tối thiểu là từ cái nhìn của Tèo tôi. Còn ti tỉ nhiều đề tài mê hoặc về Hồ Chí Minh mà tôi không muốn đề cập vì lười là chính : đời sống sinh viên học viên Hồ Chí Minh, những trò ma mãnh ” cua ghệ ” của bọn Tèo Hồ Chí Minh, con trai TP HCM, bạn hữu TP HCM, …Tôi đã nghe rất nhiều những lời nhận xét kiểu vơ đũa cả nắm : con trai TP HCM thế này, con gái TP HCM thế kia, dân Hồ Chí Minh thế nọ … Càng nghe càng thấy buồn cười vì đa phần những người nói mấy câu đó chưa khi nào thật sự sống ở Hồ Chí Minh. Không hiểu có ai đó đọc bài này xong thì có biến hóa cái nọ cái kia trong nhận thức của họ không ? Hy vọng nhỏ nhoi của tôi là những đổi khác, nếu có, là theo hướng tốt hơn .Riêng tôi thì tôi vẫn nhớ day dứt cái ngõ nhỏ rối loạn ấy …

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories