Thủ ấn – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Namaste – một thể hiện văn hóa phổ biến ở Ấn Độ.Chắp tay lại cùng với một nụ cười để thực hành thực tế cử chỉ chào – một bộc lộ văn hóa truyền thống thông dụng ở Ấn Độ .

Trong Ấn Độ giáo và Phật giáo, Ấn (mudrā (, chữ Nho: 印; chữ Tạng: ཕྱག་རྒྱ་ phyag rgya}) hay ấn tướng, ấn thủ là một dấu hiệu thể hiện qua tác động thân thể, thường là cử chỉ của tay, hay chính xác hơn vị trí và tư thế của bàn tay và ngón tay. Ấn tướng cũng được dùng trong các điệu vũ truyền thống của Ấn Độ và cả trong cuộc sống hàng ngày, như cử chỉ chào Namaste (Namas + te, Devanagari: नमस् + ते = नमस्ते). Các cuộc khai quật khảo cổ nền văn minh Ấn Độ cho thấy nhiều tượng đất nung có niên đại từ 3000 đến 2000 năm trước Công nguyên với tay đặt trong tư thế Namaste.[1][2][3]

Trong khi một số ít mudra tương quan đến hàng loạt khung hình, hầu hết được thực thi với những bàn tay và ngón tay. [ 4 ] Một Mudra là một cử chỉ tượng trưng niềm tin và một dấu ấn tràn trề nguồn năng lượng của tính xác nhận sử dụng trong những hình tượng và thực hành thực tế tâm linh của những tôn giáo tại Ấn Độ .

Một trăm lẻ tám (108) mudra được sử dụng trong các nghi thức Tantra (Đát-đặc-la) thường xuyên.[5]

Trong yoga, mudra được sử dụng phối hợp với Prāṇāyāma ( bài tập thở yoga ), nói chung là trong khi ngồi trong tư thế Padmāsana ( Liên hoa tọa ), Sukhāsana hoặc vajrāsana, để kích thích những bộ phận khác nhau của khung hình có tương quan với hơi thở và tác động ảnh hưởng đến dòng chảy của prāṇa ( nguồn năng lượng sống ) trong khung hình .

Trong tranh tượng Phật giáo, các đức Phật thường được trình bày với một tư thế tay đặc biệt, vừa là một cử chỉ tự nhiên, vừa là một dấu hiệu của tính chất Phật (Phật tính). Trong Đại thừa, các Thủ ấn chỉ các ấn nơi tay, đều tương ứng với các ý nghĩa đặc biệt, đối lập với Khế ấn là những tư thế khác như cầm ngọc, tọa thiền… Đặc biệt, trong các tông phái như Thiên Thai tông, Kim cương thừa, các ấn này thường đi đôi với Man-tra. Ngoài ra, các ấn này giúp hành giả chứng được các cấp tâm thức nội tại, bằng cách giữ vững những vị trí thân thể nhất định và tạo mối liên hệ giữa hành giả với các vị Phật hoặc Đạo sư trong lúc hành trì một Thành tựu pháp (sa. sādhana).

Các ấn quan trọng trong Ấn Độ giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Các ấn quan trọng trong Phật giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Có 10 ấn quan trọng nhất .

Tượng Phật tọa thiền tại Chùa Gal Viharaya, Polonnaruwa, Sri Lanka .Trong ấn này, sống lưng bàn tay mặt để trên lòng bàn tay trái, hai ngón cái chạm nhau. Hai bàn tay để trên lòng, ngang bụng. Bàn tay mặt phía trên tượng trưng cho tâm thức giác ngộ, bàn tay trái phía dưới tượng trưng quốc tế hiện tượng kỳ lạ. Ấn quyết này biểu lộ sự giác ngộ đã vượt lên quốc tế hiện tượng kỳ lạ, nó cũng biểu lộ tâm thức giác ngộ đã vượt qua tâm thức phân biệt, trong đó Luân hồi hay Niết-bàn chỉ là một .

Ấn thiền có một dạng khác, thường chỉ thấy tại Nhật Bản, trong đó các ngón tay giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út của hai bàn tay nằm lên nhau, ngón cái và ngón trỏ mỗi tay tạo thành hai vòng tròn chạm nhau, hai vòng tròn đó biểu tượng thế giới chân như và thế giới hiện tượng. Ấn này hay được tạo hình nơi tranh tượng của Phật A-di-đà và hay được gọi là Ấn thiền A-di-đà. Trong Thiền tông, thiền giả lại để bàn tay trái trên bàn tay mặt lúc tọa thiền. Điều này thể hiện thân trái (tĩnh) nằm trên thân phải (động), nhằm chỉ rõ thái độ trầm lắng của Thiền tông.

Ấn giáo hóa (sa. vitarka-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn giáo hóa

Khi làm ấn này, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống, hai lòng bàn tay chỉ tới trước. Trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau, làm vòng tròn. Bàn tai mặt đưa ngang vai, bàn tay trái ngang bụng. Trong một dạng khác của ấn giáo hóa, lòng bàn tay trái hướng lên, để ngang bụng, tay mặt ngang vai, ngón tay trỏ và tay cái làm hình tròn. Trong một dạng khác thì ngón trỏ và ngón út duỗi thẳng, ngón giữa và đeo nhẫn co lại. Lòng bàn tay trái hướng lên, tay mặt hướng xuống. Người ta hay bắt gặp ấn giáo hóa nơi tranh tượng Phật A-di-đà, có khi nơi Phật Đại Nhật (sa. mahāvairocana).

Ấn chuyển pháp luân (sa. dharmacakrapravartana-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Với ấn chuyển pháp luân, tay trái hướng vào thân, tay mặt hướng ra. Trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau thành vòng tròn, hai vòng tròn đó chạm nhau. Người ta hay thấy ấn chuyển pháp luân nơi tranh tượng của Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Phật Đại Nhật và Phật Di-lặc.

Ấn xúc địa (sa. bhūmisparśa-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn xúc địa

Trong ấn xúc địa, lòng bàn tay trái hướng lên trên, đặt ngang bụng, tay mặt chỉ xuống với những ngón tay của tay phải duỗi ra chạm đất, lưng tay mặt xoay tới trước. Đó là ấn quyết mà đức Thích Ca gọi thổ địa chứng minh mình đạt Phật quả và cũng là dấu hiệu của sự không lay chuyển, vì vậy Phật Bất Động (Akṣobhya) cũng hay được trình bày với ấn này.

Ấn vô úy (sa. abhaya-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn vô úy

Trong ấn này, tay mặt với các ngón tay duỗi ra chỉ về phía trước, ngang tầm vai. Đây là ấn quyết mà Phật Thích Ca sử dụng ngay sau khi đắc đạo. Phật Bất Không Thành Tựu (sa. amoghasiddhi) cũng hay được trình bày với ấn này.

Ấn thí nguyện (sa. varada-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn thí nguyện

Ấn thí nguyện cũng được gọi là Dữ nguyện ấn hay Thí dữ ấn. Thí nguyện là cho phép được toại nguyện, lòng tay mặt hướng về phía trước, bàn tay chỉ xuống. Nếu ở tượng Phật Thích Ca là đó biểu hiện gọi trời (xem ấn xúc địa) chứng minh Phật quả. Phật Bảo Sinh (sa. ratnasambhava) cũng hay được diễn tả với ấn quyết này. Trong một dạng khác, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau thành vòng tròn. Ấn vô úy và ấn thí nguyện hay được trình bày chung trong một tranh tượng. Thường tay mặt bắt ấn vô úy, tay trái ấn thí nguyện. Tượng đứng của các vị Phật hay có hai ấn này.

Ấn tối thượng bồ-đề (sa. uttarabodhi-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn tối thượng bồ-đềKhi thực thi ấn này, hai bàn tay chắp ngang ngực, hai ngón trỏ duỗi thẳng chạm vào nhau, như mũi nhọn của một Kim cương chử. Các ngón khác lồng vào nhau, hai ngón cái chạm nhau hay để lên nhau. Tranh tượng của Phật Đại Nhật hay được trình diễn với ấn này .

Ấn trí huệ vô thượng (sa. bodhyagri-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn này yên cầu ngón tay trỏ của bàn tay mặt được năm ngón kia của tay trái nắm lấy. Ấn này người ta hay thấy nơi Phật Đại Nhật. Trong Mật tông có nhiều cách lý giải ấn này, nhưng nói chung một ngón tay chỉ rõ sự nhất thể của vạn sự và năm ngón kia chỉ tướng trạng vô cùng của quốc tế hiện tượng kỳ lạ .

Ấn hiệp chưởng (sa. añjali-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn hiệp chưởng

Với ấn này, hai bàn tay chắp trước ngực, được sử dụng để tán thán, ca ngợi, và cũng là cử chỉ chào hỏi thông thường tại Ấn Độ. Với dạng ấn, hai bàn tay chắp lại chỉ Chân như. Trong các tranh tượng, Phật và các vị Bồ Tát không bao giờ được trình bày với ấn này vì trong Ba thế giới, không có ai vượt ngoài trí huệ của chư vị và vì vậy, chư vị không cần phải tán thán ai cả.

Ấn kim cương hiệp chưởng (sa. vajrapradama-mudrā)

[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn kim cương hiệp chưởng

Khi làm ấn này, đầu ngón tay của hai bàn tay chắp vào nhau. Ấn này là biểu hiện của tín tâm bất động, vững chắc như Kim cương (sa. vajra).

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories