THƠ ĐƯỜNG LUẬT: NIÊM LUẬT-XƯỚNG HỌA-THI BỆNH.

Related Articles

LỜI NGỎ :

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường luật nổi tiếng với niêm luật chặt chẽ và mức độ khó khi làm một bài thơ hoàn chỉnh. Sau đây, tôi xin phép viết lại một số tài liệu mà tôi đã sưu tầm được để các bạn yêu thích thể loại thơ này có thêm nhiều kiến thức về nó.

******************

THƠ ĐƯỜNG LUẬT .

I. TỔNG QUÁT.

II. THƠ TỨ TUYỆT.

III. PHÉP ĐỐI.

IV. PHÉP HỌA.

V. LUẬT VỀ ĐIỆU THƠ.

VI. ĐỐI NGẪU.

VII. THI BỆNH.

*****************************

I-TỔNG QUÁT .

Bài này trích từ quyển Văn học Việt Nam của GS Dương Quảng Hàm, viết tại Hà Nội tháng 6 năm 1939. In tại Taiwan do Bộ Giáo Dục, Trung tâm học liệu xuất bản.

Thơ Đường luật hay cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) bên Trung Hoa, phải theo luật lệ nhất định.

Tứ tuyệt hay bát cú:

Theo số câu trong bài, thơ Đường luật chia ra làm hai lối:

1- Tứ tuyệt: 4 câu

2- Bát cú: 8 câu

Trong hai lối ấy, lối bát cú là lối chính. Mà bát cú vần bằng là phổ biến hơn cả.

(Các bạn chỉ cần học và trau dồi loại bát cú vần bằng là đủ để Làm thơ và Họa thơ Đường luật rồi).

1. VẦN.

Cách gieo vần:

Thường dùng vần bằng, rất hiếm dùng vần trắc. Suốt bài thơ chỉ gieo một vần gọi là độc vận.

Có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và các câu chẵn, nghĩa là cuối các câu 1,2,4,6,8.

Lạc vận và cưỡng áp:

Làm thơ phải hiệp vận cho đúng. Nếu gieo sai như cây đi với hoa là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng thì gọi là cưỡng áp. Hai cách này đều không được cả.

2. ĐỐI.

Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú, trừ hai câu đầu, hai câu cuối, còn bốn câu giữa cứ hai câu đối nhau: 3 với 4; 5 với 6.

3. LUẬT

Luật bằng và luật trắc:

Là cách sắp đặt tiếng bằng và tiếng trắc trong các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc nhà làm thơ phải theo đúng mà đặt.

LUẬT BẰNG:

Bắt đầu bằng hai tiếng bằng.

Luật bằng vần bằng:

1: B B T T T B B (v: vần)

2: T T B B T T B (v)

3: T T B B B T T

4: B B T T T B B (v)

5: B B T T B B T

6: T T B B T T B (v)

7: T T B B B T T

8: B B T T T B B (v)

LUẬT TRẮC:

Bắt dầu bằng hai tiếng trắc.

A. Luật trắc vần bằng:

1: T T B B T T B (v)

2: B B T T T B B (v)

3: B B T T B B T

4: T T B B T T B (v)

5: T T B B B T T

6: B B T T T B B (v)

7: B B T T B B T

8: T T B B T T B (v)

B. Luật trắc vần trắc

1: T T B B B T T (v)

2: B B T T B B T (v)

3: B B T T T B B

4: T T B B B T T (v)

5: T T B B T T B

6: B B T T B B T (v)

7: B B T T T B B

8: T T B B B T T (v)

4. BẤT LUẬN.

Trong bài thơ, chữ thứ 1, thứ 3 không cần theo đúng luật bằng trắc (chữ thứ 5 không nên theo lệ bất luận).

Nhưng chữ thứ 2, 4, 6 phải đúng luật bằng trắc: Nhị tứ lục phân minh.

5. KHỔ ĐỘC.

Nghĩa là khó đọc, đọc lên trúc trắc không được êm tai. Tuy theo lệ “bất luận ” có thể thay đổi mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng thì bao giờ cũng được, chứ đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp, sự thay đổi ấy làm cho bài thơ khổ độc.

Những trường hợp ấy là: Chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc .

6. THẤT LUẬT.

Trong một câu thơ chữ nào đáng là bằng mà đặt tiếng trắc, hoặc đáng trắc mà đặt tiếng bằng, thì gọi là thất luật (sai luật thơ), không được.

7. NIÊM.

Niêm nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc âm luật của hai câu thơ trong một bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau đây niêm với nhau.

Thí dụ: Một bài thơ luật bằng vần bằng:

Câu 1 niêm với 8:

B B T T T B B

Câu 2 niêm với 3:

T T B B T T B

T T B B B T T

Câu 4 niêm với 5:

B B T T T B B

B B T T b B T

Câu 6 niêm với 7:

T T B B T T B

T T B B B T T

Câu 8 niêm với 1:

B B TT T B B

8. THẤT NIÊM.

Trong một bài thơ, nếu cả hai câu thơ đặt sai luật, như đang bắt đầu bằng bằng đặt làm trắc trắc hoặc trái lại thế, làm cho cả câu thơ trong bài không niêm với nhau thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), không được.

9. CÁC BỘ PHẬN TRONG BÀI THƠ.

Cách bố cục một bài thơ:

Một bài thơ bát cú giống như bức tranh. Trong cái khung nhất định 8 câu 56 chữ, làm sao vẽ thành một bức tranh hoàn toàn, hình dung được ngoại cảnh của tạo vật hay nội cảnh của tâm giới. Bởi vậy phải sắp đặt các bộ phận cho khéo. Có bốn bộ phận là: Đề, thực, luận và kết.

1- Đề thì có phá đề (câu 1) là câu mở bài nói lung động cả ý nghĩa trong bài và thừa đề (câu 2) là câu nối với câu phá mà nói đến đầu bài.

2- Thực hoặc trạng (câu 3-4): là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự giãi bày ra; nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng của người mình muốn vịnh mà kể ra.

3- Luận (câu 5-6): là bàn bạc. Như tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp như thế nào; vịnh sử thì hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác việc khác.

4- Kết (câu 7-8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại cho mạnh mẽ rắn rỏi.

*************************************************************

II – THƠ TỨ TUYỆT .

Để học làm thành công một bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú thì trước hết, chúng ta nên tập làm thơ Tứ tuyệt cho thật rành rẽ, điêu luyện. Bởi những quy định của thơ Tứ tuyệt cũng là quy định của thơ Đường luật.

1. THƠ TỨ TUYỆT:

Thơ Tứ tuyệt là thơ Đường luật chỉ có 4 câu.

Từ một bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, có 4 cách ngắt để hình thành 4 bài thơ Tứ tuyệt.

Thí dụ:

THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thắm thoát mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

Ngàn năm kim cổ soi gương cũ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

BÀ HUYỆN THANH QUAN

Có thể ngắt ra:

1.

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thắm thoát mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

2.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

3.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

Ngàn năm kim cổ soi gương cũ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

4.

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thắm thoát mấy tinh sương

Ngàn năm kim cổ soi gương cũ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

2. BẢNG LUẬT.

Từ thí dụ trên, cho thấy: Thơ Tứ tuyệt có loại 3 vần, có loại 2 vần và có đối hoặc không.

Để dễ nhớ và có thể liên hệ khi đến giai đoạn tập làm thơ Đường luật, các bạn dùng ngay bảng luật của thơ Đường luật và viết cách quãng bảng luật đó ra để trở thành luật của thơ Tứ tuyệt.

Cụ thể:

A- Luật bằng vần bằng:

1: B B T T T B B (v: vần)

2: T T B B T T B (v)

3: T T B B B T T

4: B B T T T B B (v)

1: B B T T B B T

2: T T B B T T B (v)

3: T T B B B T T

4: B B T T T B B (v)

B- Luật trắc vần bằng:

1: T T B B T T B (v)

2: B B T T T B B (v)

3: B B T T B B T

4: T T B B T T B (v)

1: T T B B B T T

2: B B T T T B B (v)

3: B B T T B B T

4: T T B B T T B (v)

Nếu muốn, các bạn làm câu 3 và câu 4 đối nhau thì trở thành bài thơ Tứ tuyệt có đối.

Vì là thơ Luật nên bắt buộc phải làm đúng luật.

Nếu chưa nhập tâm luật, khi làm thơ Tứ tuyệt (hay Đường luật) chúng ta cứ để bảng luật trước mặt mà làm cho đúng luật. Sau khi làm xong, kiểm tra luật lại một lần nữa.

******************************************************

III – PHÉP ĐỐI :

Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp.

Thí dụ:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh

Trong bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có đối với nhau giữa các câu 3 và 4. câu 5 và 6.

Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện:

-Đối thanh.

-Đối ý.

-Đối từ loại.

1. ĐỐI THANH:

-Bảng luật bằng:

B B T T B B T

T T B B T T B

-Bảng luật trắc:

T T B B B T T

B B T T T B B

Chí ít là các chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật bằng trắc.

2. ĐỐI Ý:

Ý câu trên và ý câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Thí dụ:

Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

3. ĐỐI TỪ LOẠI.

Danh từ Danh từ.

Danh từ riêng Danh từ riêng.

Danh từ chung Danh từ chung

Động từ Động từ.

Trạng từ Trạng từ.

Tính từ Tính từ.

Tính từ có nhiều loại, nên:

Gợi hình Gợi hình.

Màu sắc Màu sắc.

Mùi vị Mùi vị.

Tượng thanh Tượng thanh.

Số lượng Số lượng.

Tên người Tên người.

Tên nước Tên nước.

Tên địa phương Tên địa phương.

Mùa tiết Mùa tiết.

Phương hướng Phương hướng.

Chữ nặng Chữ nặng.

Chữ nhẹ Chữ nhẹ.

Từ kép Từ kép.

Từ đơn Từ đơn.

Thành ngữ Thành ngữ.

Chuyên ngữ Chuyên ngữ.

Hán Việt Hán Việt.

Nôm (thuần Việt) Nôm (thuần Việt).

Hai cặp đối trong thơ Đường luật là tinh hoa của bài thơ. Nó là đặc điểm chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp đo lường trình độ làm thơ Đường luật của tác giả.

Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.

*******************************************************

IV- PHÉP HỌA

THƠ ĐƯỜNG LUẬT.

***

1. CÁC THỂ THỨC

HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.

Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận.

1. HỌA HẠN VẬN:

Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:

– Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.

– Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.

Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:

a. Ðầu đề (nội dung) là:

Trống treo ai dám đánh thùng

Bậu không ai dám dở mùng chun vô

b. Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô – cô – vô – ô – rô.

Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu!… như sau đây:

Nào phải là ai dám giục xô

Thuận tình trước hết tự nơi cô

Có cho mới dám trao dùi đánh

Không hẹn nào ai đẩy cửa vô

Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa

Ham vui quên hết chuyện dâm ô

Thói hư thuần thước xưa còn lạc

Đừng học làm chi gióng nhảy rô

Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:

Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:

– Đầu đề: Xuân Khuê.

– Hạn 5 vần: chờ – hờ – thưa – tơ – thơ.

– Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.

Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:

Xuân Khuê

Một mong hai đợi bốn ba chờ

Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ

Nửa gối năm canh gà gáy giục

Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa

Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ

Chín khúc bên lòng vạn mối tơ

Ngàn trượng thành sầu đo thước khó

Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ

Phan Mạnh Danh

2. HỌA PHÓNG VẬN

Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).

Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.

a. Họa Nguyên Vận:

Là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.

b. Họa Đảo Vận:

Là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.

c. Họa Hoán Vận:

Là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.

d. Họa Tá Vận:

Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.

NHỮNG CHÚ Ý QUAN TRỌNG :

Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng.

Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng.

Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.

Hoạ nguyên vận là phải dùng lại vần đồng âm đồng nghĩa của bài xướng. Nếu dùng vần đồng âm dị nghĩa là không đúng phép hoạ thơ Đường luật.

– Hoạ nguyên vận (mượn vần): dùng vần đồng âm đồng nghĩa (và cùng từ loại).

– Hoạ tá vận: dùng vần đồng âm dị nghĩa (và không cùng từ loại).

*Đồng âm đồng nghĩa là cùng âm (the same sound) cùng nghĩa (synonym);

đồng âm dị nghĩa là cùng âm (the same sound) nhưng khác nghĩa (the difference meaning).

HOÀNG THỨ LANG sưu tầm và biên soạn.

*****************************************************

PHẦN QUAN TRỌNG

TRONG HỌA THƠ.

Họa Thơ bao gồm 3 phần chính quan trọng sau đây:

Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng.

Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước “thách đố” cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:

1. Họa vần:

Năm vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1 – 2 – 4 – 6 – 8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi.

Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị lỗi (Fail).

2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.

3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.

Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).

Tóm lại 3 yếu tố 1 – 2 – 3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.

Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam.

Bài Xướng:

TÔN PHU NHÂN QUI THỤC

(của Tôn Thọ Tường)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng

Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông

Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc

Về Hán trau tria mảnh má hồng

Son phấn thà cam dày gió bụi

Đá vàng chi để thẹn non sông

Ai về nhắn với Châu Công Cẩn

Thà mất lòng anh được bụng chồng

Bài Họa:

TÔN PHU NHÂN QUI THỤC

(của Phan Văn Trị)

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng

Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông

Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng

Duyên về đất Thục đượm màu hồng

Hai vai tơ tóc bền trời đất

Một gánh cương thường nặng núi sông

Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết

Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng

Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn.

*****************************************************

CHÚ Ý

KHI HỌA THƠ.

Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa, dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.

Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú. Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).

Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.

Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc “khắc lục”, là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.

Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.

Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.

Thí dụ:

Bài xướng:

Vườn rau Cẩm Tú

Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang

Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng

Củ cải gieo gần dây mướp đắng

Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang

Thì là diếp cá lên muôn lối

Húng đổi cần tây mọc khắp đàn

Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt

Tha hồ cải thiện bữa ăn… sang

Cẩm Tú

Bài hoạ:

Vườn rau Cẩm Tú

Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang

Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng

Ngò om óng mượt bên giàn mướp

Húng quế thơm lừng kế luống lang

Bí rợ tần ô lên bít lối

Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng

Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản

Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại… sang

Hoàng Thứ Lang

Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.

5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.

Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài họa phải cùng một tựa đề với bài xướng.

Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng!

Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.

Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.

Hoàng thứ Lang sưu tầm và biên soạn

*****************************************************

HÀM Ý TRONG XƯỚNG HỌA .

Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.

Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng.

Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.

Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.

Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.

Hoạ thơ là “vẽ lại” hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.

Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.

Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.

Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.

Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.

Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng họa với nhau, có thể dùng thể thức Họa Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai, xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.

Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào họa nguyên vận theo chính họa được. Chúng ta có thể họa tá vận (mượn vần) theo bàng họa là xa xa, từ xa, đàng xa v.v… chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.

Thông vận, bàng đối và bàng hoạ… không xuất sắc.

Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.

Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn.

*****************************************************

NHỮNG BÀI THƠ MINH HỌA CHO CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ.

1. HOẠ HẠN VẬN:

Thí dụ:

– Hạn đề:

“Trống treo ai dám đánh thùng

Bậu không ai dám dở mùng chun vô”

– Hạn vận:

Xô – Cô – Vô – Ô – Rô

Bài họa:

Nào phải là ai dám giục xô

Thuận tình trước hết tự nơi cô

Có cho mới dám trao dùi đánh

Không hẹn nào ai đẩy cửa vô

Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa

Ham vui quên hết chuyện dâm ô

Thói hư thuần thước xưa còn lạc

Đừng học làm chi giống nhảy rô

2. HỌA PHÓNG VẬN:

Thí dụ 1:

a. Họa nguyên vận:

Bài xướng:

TƯƠNG TƯ

Tương giang hai đứa ở hai nơi

Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời

Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi

Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi

Vần thơ nức nở mi nhòa lệ

Nét chữ run run ý cạn lời

Định số an bài mang khổ hận

Đêm trường thổn thức máu tim rơi

Hoàng Thứ Lang

11/8/05

Bài họa:

TƯƠNG TƯ

Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi

Về đâu trên vạn nẻo đường đời

Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi

Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi

Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý

Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời

Dòng sông ly biệt nào chia lối

Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi

Hoàng Thứ Lang

11/8/05

b. Họa đảo vận:

Bài xướng:

TƯƠNG TƯ

Tương giang hai đứa ở hai nơi

Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời

Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi

Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi

Vần thơ nức nở mi nhòa lệ

Nét chữ run run ý cạn lời

Định số an bài mang khổ hận

Đêm trường thổn thức máu tim rơi

Hoàng Thứ Lang

11/8/05

Bài họa:

TƯƠNG TƯ

Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi

Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời

Hai hàng lệ tủi than trời hỡi

Một áng thơ sầu khóc bạn ơi

Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp

Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời

Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ

Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi

Hoàng Thứ Lang

11/8/05

c. Họa hoán vận:

Bài xướng:

TƯƠNG TƯ

Tương giang hai đứa ở hai nơi

Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời

Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi

Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi

Vần thơ nức nở mi nhòa lệ

Nét chữ run run ý cạn lời

Định số an bài mang khổ hận

Đêm trường thổn thức máu tim rơi

Hoàng Thứ Lang

11/8/05

Bài họa:

TƯƠNG TƯ

Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời

Trao người yêu dấu của tôi ơi

Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối

Bến mộng đôi bờ phải khác nơi

Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ

Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi

Ai xui hai đứa mình dang dở

Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời

Hoàng Thứ Lang

11/8/05

d. Họa tá vận (mượn vần):

Bài xướng:

TRUNG THU

Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm

Tháng tám chờ trông đến bữa rằm

Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng

Cha làm trống ếch đánh quanh năm

Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh

Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm

Chiếc lá chao mình trong gió sớm

Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm

Hoàng Thứ Lang

Oct 05, 2006

Bài họa:

XIN XĂM

Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm

Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm

Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng

Khấn nguyện bình an đến trọn năm

Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt

Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm

Đưa tay vói rút ồ hên quá

Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm

Trâm Anh

Oct 06, 2006

HOÀNG THỨ LANG.

*******************************************************

V- LUẬT VỀ ĐIỆU THƠ.

Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai, dễ đọc, để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.

Điệu thơ gồm có 3 phần chính:

1. Nhịp điệu:

Thơ Đường luật nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa (2-2-3 hoặc 4-3)

2. Âm điệu:

Nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.

3. Vần điệu:

Nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu với tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc.

HOÀNG THỨ LANG

*****************************************************

VI- ĐỐI NGẪU

TRONG THƠ ĐƯỜNG

***

ĐỐI NGẪU – LÀ MỘT VẺ ĐẸP ĐẶC SẮC, LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.

Tôi được biết, người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực. Chưa xong. Người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp xỉ số thanh bằng. Nếu ta gọi chữ có thanh bằng là số (+), chữ có thanh trắc là số (-), thì luật âm dương này thăng giáng bù trừ sát sao đến từng liên thơ, đến cả bài thơ. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân bằng, có ý nghĩa triết học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật.

– Ý nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối ngẫu.

Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạc.

Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ này như một điều bắt buộc.

Từ đầu thế kỷ trước, đối mặt với sự thắng thế của phong trào thơ mới, Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Luật Đường, ông đã sáng tác nhiều bài thơ không đối, chỉ giữ lại có luật hạn câu, hạn chữ, hạn vận, hạn bằng trắc. Vũ Hoàng Chương xem những bài thơ đó chỉ là một thực nghiệm. Sau đó, song song với việc sáng tác thơ mới, ông còn sáng tác nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh khác (như bài đa thủ “Giấc mơ tái tạo”).

Chúng ta nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ luật Đường thì đừng có bao giờ bực bội giữa khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai cặp đối ở hai câu thực, luận và nóng vội cho rằng: làm gì mà phải đối chặt chẽ vậy.

***

– Đối ngẫu trong thơ đường luật bát cú, thất ngôn, ngũ ngôn nói tổng quát là có 2 phép: Phép chỉnh đối và phép khoan đối.

Dưới đây chúng tôi xin được trao đổi về 2 phép đối này. Các ví dụ được nêu ra để phân tích, chúng tôi lấy từ một số bài thơ đã in trong “Thơ Đường quê lụa” tập 5, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008.

PHÉP CHỈNH ĐỐI:

Nguyễn Thu Hà, người trẻ tuổi nhất của CLB, trong bài “Duyên quê”, cặp thực, đối như sau:

Anh nắm bàn tay thon ấm áp,

Em cười đôi mắt sáng long lanh.

Thật là chỉnh, thật là chính danh: anh với em, bàn tay với đôi mắt (Danh từ đối với Danh từ), Thon với sáng (Tính từ đối với nhau), ấm áp với long lanh (Trạng từ láy đối nhau). Hai câu thơ tình đằm thắm đến thế mà lại không thấy lả lơi. Thu Hà đã huy động phép đối rất nghiêm để đạt hiệu quả.

Hạnh Anh (Đỗ Biện), trong bài “Đêm thu” câu 5,6 đối như sau:

Hoa cúc bâng khuâng ly rượu ngát

Hoa nhài thao thức chút hương phôi.

Cặp đối chính danh này rất nghiêm về thể thức, nhưng lại rất hào hoa.

Cụ Tạ Đăng Viên, ngoại 80, có bài “Tự thọ” rất hóm hỉnh, cụ có cặp luận:

Kính mắt gà đeo tròng chấp chới

Gậy càng cua chống bước lon ton.

Bằng hai câu đối chặt chẽ, như vẽ nên, như trông thấy một cụ đại thọ nhanh nhảu hồn nhiên trước mắt ta.

PHÉP KHOAN ĐỐI:

Để cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn.

Phép lưu thủy đối:

Ví dụ:

Còn chăng lời hẹn bên trang sách,

Hay đã tàn theo ánh lửa đèn.

Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại xét: Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối.

Tất cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương tự như: còn chăng…,đã sinh…, bỗng dưng…, ứng với đầu câu dưới là các chữ tương tự như: hay đã…,phải có…, để mà…, v.v. thì liên thơ đó đã theo phép đối nói trên.

Phép tá tự đối:

Ví dụ:

Nghèo sạch, thanh danh nên gắng giữ

Giầu sang, khó tính chớ nên chơi.

Câu trên, “thanh danh” là danh từ, câu dưới “khó tính” là tính từ, xét thế thì quả là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng (không theo nghĩa thật), thì chữ “khó”, chữ “thanh” lại là tính từ; Chữ “danh” và chữ “tính” lại là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối chặt chẽ với nhau. Phép đối này người ta lợi dụng sự đồng âm dị nghĩa để Tá tự đối (như: hai mái trống tung đành chịu dột/ tám giờ chuông điểm phải nằm co – của Tú xương).

Phép số tự đối gắn với Tá tự đối.

Ví dụ:

Học bẩy nghề còn lo thất nghiệp

Làm ba vụ vẫn đói tư mùa.

Hơi tiếc, ở câu dưới viết: ba vụ đối với tư mùa, tuy là đúng có nội đối ở trong câu, nhưng không hay bằng câu trên: bẩy cái nghề và thất (mất) cái nghiệp. Câu dưới, nếu không vì luật bằng trắc, mà viết là: “Làm tư vụ vẫn đói tứ mùa”, thì câu đối này được xếp vào hạng tuyệt diệu. Phép đối này được xem như là phép số tự đối có kèm theo lối chơi chữ (có thể liên hệ đến: nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc – của bà Huyện Thanh Quan).

Phép cú trung đối:

Ví dụ:

Màn trời chiếu đất con người khổ

Nước vật thuyền xơ cá biển nghèo

Nếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng bất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: màn trời đối với chiếu đất; nước vật đối với thuyền xơ; đuôi câu trên (con người khổ) đối rất chặt với đuôi câu dưới (cá biển nghèo). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân bằng. Đây là cú trung đối.

Tuy nhiên còn một số phép đối khác chúng ta ít vận dụng, xin được dẫn ra đây để cùng tham khảo.

a) Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ?

Xương gà da cóc, có đau không?

(Nguyễn Khuyến)

b) Càng nóng bao nhiêu thời càng mát

Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày

(Hồ Xuân Hương)

*

c) Công đức tu hành, sư có lọng

Xu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe.

(Tú Xương)

Chúng ta để ý: Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã tổ chức từ ngữ ở từng câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai liên đối a,b nêu trên vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ a, b trên chúng ta quy vào phép Tựu cú đối.

Trong câu của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai thành ngữ để chọi nhau: công đức tu hành chọi với xu hào rủng rỉnh. Mặt khác đuôi của từng câu lại đối rất chặt với nhau: sư có lọng đối với mán ngồi xe. Phân tích đặc điểm này để kết luận: đây cũng là phép Tựu cú đối như a và b. Cú trung đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của câu văn na ná như nhau, nên còn có tên chung là Đương đối.

Phép giao cổ đối:

Cụ Trần Tuấn Ngọc, trong bài “Tự nhủ”, (Bạn và thơ là xuân – NXBVHDT, Hà Nội 2004), có câu luận:

Chân bước vững, đường chiều khấp khểnh

Rừng cây rậm rạp, trúc vươn cao.

Đây chính là phép Giao cổ đối: chân bước vững đối chéo xuống với trúc vươn cao, và rừng cây rậm rạp đối chéo lên với đường chiều khấp khểnh.

Phép bất đối chi đối:

Trong buổi lễ tế “Trận vong tướng sỹ” thế kỷ 19, quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành có sai trưng câu đối chữ Hán (nay dịch nghĩa) như sau:

Bóng chiều đã ngả đâu quê cũ

Xưa nay chinh chiến mấy ai về.

Câu trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu. Câu dưới lấy từ thơ Vương Hàn, bài Lương Châu Từ.

Cái hay của đôi câu đối này là: Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. Câu 1 có đại ý là cảm thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là quá hợp với nội dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ. Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý. Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng với

nhau.

Những bậc cao niên khuyên rằng, nếu một khi ta chưa thật thạo về các phép đối, thì chỉ nên sử dụng các phép chỉnh đối, lưu thủy đối, cú trung đối. Còn các phép đối khác, chúng ta hãy chỉ làm quen, giúp chúng ta nhận biết được các dạng thức đối khác nhau.

Vẫn phải thưa thêm: các phép đối thơ, dù ở dạng thức nào đều phải hội đủ 3 đặc điểm:

– Đối ý. Ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.

– Đối thanh âm. Chí ít là các chữ nằm ở vị trí 2, 4, 6, 7 (Thơ thất ngôn) và 2, 4, 5 ( Thơ ngũ ngôn) nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc.

– Đối từ loại: danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ. Phải nắm được các phép biến đổi từ loại ở các ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên, cũng có phép đối không yêu cầu đối từ loại như theo phép chiếu chữ, mà ở đó lại có sự xoay chiều để đối chéo cho nhau.

Viết bài này tôi chỉ nhằm mục đích trao đổi thêm về vấn đề đối ngẫu trong thơ Đường luật. Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực, luận chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để nhận ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt nhẽo và vô vị.

Trong bài này, việc đặt vấn đề của tôi là chắc chắn đúng nhưng việc lấy ví dụ để phân tích thì có thể có chỗ còn nông cạn, thậm trí có chỗ còn thiếu sót. Để góp một chút lửa thắp sáng cho thơ Đường đất Việt, rất mong bạn đọc rộng lượng và cùng đồng hành.

NGUYỄN VĂN THỤ

Chủ nhiệm CLB thơ đường Hà Nội

**********************************************************

VII – CÁC THI BỆNH TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT :

(Bài viết được sưu tầm và hiệu chỉnh, nếu có gì sơ sót, mong các bạn châm chước, hoặc có bổ sung gì; thì xin vào mục Góp Ý – Thắc Mắc).

*****

(Ghi chú: Những bệnh và lỗi sau đây là những sưu tầm trên mạng. Chỉ riêng luật Bằng Trắc và Niêm Luật thì phải theo, còn ngoài ra; tùy theo mỗi người có một quan điểm riêng, chứ không bắt buộc, ai cảm thấy thích thì theo).

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường luật nổi tiếng với niêm luật chặt chẽ và mức độ khó khi làm một bài thơ hoàn chỉnh. Sau đây, tôi xin phép viết lại một số tài liệu mà tôi đã sưu tầm được để các bạn yêu thích thể loại thơ này có thêm nhiều kiến thức về nó.

-12 lỗi, bệnh trong thơ Đường Luật.

1. Thất luật.

2. Thất niêm.

3. Lạc vận/Cưỡng vận.

4. Thất đối.

5. Khổ độc.

6. Trùng vận. (Điệp Vận)

7. Trùng từ. (Điệp Từ)

8. Trùng ý (Hiệp Chưởng)

9. Phạm đề- Mạ đề.

10. Điệp điệu.

11. Bình đầu.

12. Thượng vỹ.

13. Điệp thanh.

14. Điệp âm.

15. Đại vận.

16. Tiểu vận.

17. Phong yêu.

18. Hạc tất.

19. Chánh nữu.

20. Bàng nữu.

************************

Phân biệt thơ Đường luật và thơ Đường:

Rất nhiều người làm thơ đã lầm lẫn gọi thơ Đường luật là thơ Đường. Thật sự thì đây là 2 ý niệm hoàn toàn khác nhau. – thơ Đường luật (ĐL): là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Tàu. Các bài thơ này bên Trung quốc được gọi là Luật thi.

Sang Việt Nam, Thi luật gọi là thể thơ ĐL. – thơ Đường hay Đường thi : là những bài thơ của các thi sĩ Trung Hoa làm dưới thời nhà Đường, nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ. Trong số đó có một số được làm theo thể thơ ĐL, số còn lại làm theo các thể thơ khác, phần lớn là thơ cổ phong.

Tóm tắt các lỗi trong thơ Đường Luật:

1. Thất luật:

Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng.

2. Thất niêm:

Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2:

– Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3

– Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5

– Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7

– Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1

Tóm lại: “Chữ thứ hai trong bất kỳ câu nào trong một bài thơ ĐL, đều phải có cùng bằng hoặc trắc với chữ thứ sáu của câu đó”.

3. Lạc vận/Cưỡng vận:

– Trong 5 vần mà có một vần khác xen vào.

– Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận.

4. Thất đối:

Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ ĐL. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ ĐL nữa.

5. Khổ độc:

– Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu vần, và chữ thứ năm các câu không vần đáng là từ bằng mà đổi ra trắc – Trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu vần và chữ thứ ba các câu không vần đáng là bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc.

6. Trùng vận:

Thơ ĐL chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng.

Theo thi luật chính thức, nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau và không phạm lỗi. Tuy nhiên, để tránh nghe đọc trùng lặp âm vận không hay, trong bài thơ không nên để hai vần đồng âm gần nhau.

7. Trùng từ:

Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ.

8. Trùng ý (Hiệp Chưởng):

Trong bài thơ ĐL nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại).

9. Phạm đề/Mạ đề:

Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề.

10. Điệp điệu:

Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ.

11. Bình đầu:

Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt.

12. Thượng vỹ:

Trong bài thơ ĐL TNBC nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tiếp (nhiều hơn 3) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ.

13. Điệp thanh:

Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu.

14. Điệp âm:

Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu.

15. Đại vận:

Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận.

16. Tiểu vận:

Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận.

17. Phong yêu:

Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu.

18. Hạc tất:

Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất.

19. Chánh nữu:

Khi câu có từ 3 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu phạm lỗi chánh nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần)

20. Bàng nữu:

Trong một liên có từ 4 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu thì phạm lỗi Bàng Nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần).

***********************Thơ Đường luật hay cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường ( 618 – 907 ) bên Nước Trung Hoa, phải theo luật lệ nhất định. Tứ tuyệt hay bát cú : Theo số câu trong bài, thơ Đường luật chia ra làm hai lối : 1 – Tứ tuyệt : 4 câu2 – Bát cú : 8 câuTrong hai lối ấy, lối bát cú là lối chính. Mà bát cú vần bằng là thông dụng hơn cả. ( Các bạn chỉ cần học và trau dồi loại bát cú vần bằng là đủ để Làm thơ và Họa thơ Đường luật rồi ). Cách gieo vần : Thường dùng vần bằng, rất hiếm dùng vần trắc. Suốt bài thơ chỉ gieo một vần gọi là độc vận. Có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và các câu chẵn, nghĩa là cuối các câu 1,2,4,6,8. Lạc vận và cưỡng áp : Làm thơ phải hiệp vận cho đúng. Nếu gieo sai như cây đi với hoa là lạc vận ( lạc : rụng ). Nếu vần gieo gượng thì gọi là cưỡng áp. Hai cách này đều không được cả. Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú, trừ hai câu đầu, hai câu cuối, còn bốn câu giữa cứ hai câu đối nhau : 3 với 4 ; 5 với 6. Luật bằng và luật trắc : Là cách sắp xếp tiếng bằng và tiếng trắc trong các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc nhà làm thơ phải theo đúng mà đặt. LUẬT BẰNG : Bắt đầu bằng hai tiếng bằng. Luật bằng vần bằng : 1 : B B T T T B B ( v : vần ) 2 : T T B B T T B ( v ) 3 : T T B B B T T4 : B B T T T B B ( v ) 5 : B B T T B B T6 : T T B B T T B ( v ) 7 : T T B B B T T8 : B B T T T B B ( v ) LUẬT TRẮC : Bắt dầu bằng hai tiếng trắc. A. Luật trắc vần bằng : 1 : T T B B T T B ( v ) 2 : B B T T T B B ( v ) 3 : B B T T B B T4 : T T B B T T B ( v ) 5 : T T B B B T T6 : B B T T T B B ( v ) 7 : B B T T B B T8 : T T B B T T B ( v ) B. Luật trắc vần trắc1 : T T B B B T T ( v ) 2 : B B T T B B T ( v ) 3 : B B T T T B B4 : T T B B B T T ( v ) 5 : T T B B T T B6 : B B T T B B T ( v ) 7 : B B T T T B B8 : T T B B B T T ( v ) Trong bài thơ, chữ thứ 1, thứ 3 không cần theo đúng luật bằng trắc ( chữ thứ 5 không nên theo lệ bất luận ). Nhưng chữ thứ 2, 4, 6 phải đúng luật bằng trắc : Nhị tứ lục phân minh. Nghĩa là khó đọc, đọc lên trúc trắc không được êm tai. Tuy theo lệ ” bất luận ” hoàn toàn có thể biến hóa mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng thì khi nào cũng được, chứ đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp, sự biến hóa ấy làm cho bài thơ khổ độc. Những trường hợp ấy là : Chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc. Trong một câu thơ chữ nào đáng là bằng mà đặt tiếng trắc, hoặc đáng trắc mà đặt tiếng bằng, thì gọi là thất luật ( sai luật thơ ), không được. Niêm nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc âm luật của hai câu thơ trong một bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau đây niêm với nhau. Thí dụ : Một bài thơ luật bằng vần bằng : Câu 1 niêm với 8 : B B T T T B BCâu 2 niêm với 3 : T T B B T T BT T B B B T TCâu 4 niêm với 5 : B B T T T B BB B T T b B TCâu 6 niêm với 7 : T T B B T T BT T B B B T TCâu 8 niêm với 1 : B B TT T B BTrong một bài thơ, nếu cả hai câu thơ đặt sai luật, như đang khởi đầu bằng bằng đặt làm trắc trắc hoặc trái lại thế, làm cho cả câu thơ trong bài không niêm với nhau thì gọi là thất niêm ( mất sự dính liền ), không được. Cách bố cục tổng quan một bài thơ : Một bài thơ bát cú giống như bức tranh. Trong cái khung nhất định 8 câu 56 chữ, làm thế nào vẽ thành một bức tranh trọn vẹn, tưởng tượng được ngoại cảnh của tạo vật hay nội cảnh của tâm giới. Bởi vậy phải sắp xếp các bộ phận cho khéo. Có bốn bộ phận là : Đề, thực, luận và kết. 1 – Đề thì có phá đề ( câu 1 ) là câu mở bài nói lung động cả ý nghĩa trong bài và thừa đề ( câu 2 ) là câu nối với câu phá mà nói đến đầu bài. 2 – Thực hoặc trạng ( câu 3-4 ) : là lý giải đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt quan trọng mà diễn đạt ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự giãi bày ra ; nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng của người mình muốn vịnh mà kể ra. 3 – Luận ( câu 5-6 ) : là tranh luận. Như tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp như thế nào ; vịnh sử thì hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác việc khác. 4 – Kết ( câu 7-8 ) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại cho can đảm và mạnh mẽ rắn rỏi. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Để học làm thành công xuất sắc một bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú thì trước hết, tất cả chúng ta nên tập làm thơ Tứ tuyệt cho thật rành rẽ, điêu luyện. Bởi những lao lý của thơ Tứ tuyệt cũng là lao lý của thơ Đường luật. Thơ Tứ tuyệt là thơ Đường luật chỉ có 4 câu. Từ một bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, có 4 cách ngắt để hình thành 4 bài thơ Tứ tuyệt. Thí dụ : THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔTạo hóa gây chi cuộc hí trườngĐến nay thắm thoát mấy tinh sươngLối xưa xe ngựa hồn thu thảoNền cũ thành tháp bóng tịch dươngĐá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệtNước còn cau mặt với tang thươngNgàn năm kim cổ soi gương cũCảnh đấy người đây luống đoạn trườngBÀ HUYỆN THANH QUANCó thể ngắt ra : 1. Tạo hóa gây chi cuộc hí trườngĐến nay thắm thoát mấy tinh sươngLối xưa xe ngựa hồn thu thảoNền cũ thành tháp bóng tịch dương2. Lối xưa xe ngựa hồn thu thảoNền cũ thành tháp bóng tịch dươngĐá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệtNước còn cau mặt với tang thương3. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệtNước còn cau mặt với tang thươngNgàn năm kim cổ soi gương cũCảnh đấy người đây luống đoạn trường4. Tạo hóa gây chi cuộc hí trườngĐến nay thắm thoát mấy tinh sươngNgàn năm kim cổ soi gương cũCảnh đấy người đây luống đoạn trườngTừ thí dụ trên, cho thấy : Thơ Tứ tuyệt có loại 3 vần, có loại 2 vần và có đối hoặc không. Để dễ nhớ và hoàn toàn có thể liên hệ khi đến quá trình tập làm thơ Đường luật, các bạn dùng ngay bảng luật của thơ Đường luật và viết cách quãng bảng luật đó ra để trở thành luật của thơ Tứ tuyệt. Cụ thể : A – Luật bằng vần bằng : 1 : B B T T T B B ( v : vần ) 2 : T T B B T T B ( v ) 3 : T T B B B T T4 : B B T T T B B ( v ) 1 : B B T T B B T2 : T T B B T T B ( v ) 3 : T T B B B T T4 : B B T T T B B ( v ) B – Luật trắc vần bằng : 1 : T T B B T T B ( v ) 2 : B B T T T B B ( v ) 3 : B B T T B B T4 : T T B B T T B ( v ) 1 : T T B B B T T2 : B B T T T B B ( v ) 3 : B B T T B B T4 : T T B B T T B ( v ) Nếu muốn, các bạn làm câu 3 và câu 4 đối nhau thì trở thành bài thơ Tứ tuyệt có đối. Vì là thơ Luật nên bắt buộc phải làm đúng luật. Nếu chưa nhập tâm luật, khi làm thơ Tứ tuyệt ( hay Đường luật ) tất cả chúng ta cứ để bảng luật trước mặt mà làm cho đúng luật. Sau khi làm xong, kiểm tra luật lại một lần nữa. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp. Thí dụ : Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏCây nêu tràng pháo bánh chưng xanhTrong bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có so với nhau giữa các câu 3 và 4. câu 5 và 6. Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện kèm theo : – Đối thanh. – Đối ý. – Đối từ loại. – Bảng luật bằng : B B T T B B TT T B B T T B-Bảng luật trắc : T T B B B T TB B T T T B BChí ít là các chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật bằng trắc. Ý câu trên và ý câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ trợ ý nghĩa cho nhau. Thí dụ : Tầng mây lơ lững trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng teoDanh từ Danh từ. Danh từ riêng Danh từ riêng. Danh từ chung Danh từ chungĐộng từ Động từ. Trạng từ Trạng từ. Tính từ Tính từ. Tính từ có nhiều loại, nên : Gợi hình Gợi hình. Màu sắc Màu sắc. Mùi vị Mùi vị. Tượng thanh Tượng thanh. Số lượng Số lượng. Tên người Tên người. Tên nước Tên nước. Tên địa phương Tên địa phương. Mùa tiết Mùa tiết. Phương hướng Phương hướng. Chữ nặng Chữ nặng. Chữ nhẹ Chữ nhẹ. Từ kép Từ kép. Từ đơn Từ đơn. Thành ngữ Thành ngữ. Chuyên ngữ Chuyên ngữ. Hán Việt Hán Việt. Nôm ( thuần Việt ) Nôm ( thuần Việt ). Hai cặp đối trong thơ Đường luật là tinh hoa của bài thơ. Nó là đặc thù chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp thống kê giám sát trình độ làm thơ Đường luật của tác giả. Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là : Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận. 1. HỌA HẠN VẬN : Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải : – Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn. – Dùng đúng 5 vần hạn định ( trong 8 câu ) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định. Thí dụ : Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức triển khai như sau : a. Ðầu đề ( nội dung ) là : Trống treo ai dám đánh thùngBậu không ai dám dở mùng chun vôb. Năm vần hạn định theo thứ tự là : xô – cô – vô – ô – rô. Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu ! … như sau đây : Nào phải là ai dám giục xôThuận tình trước hết tự nơi côCó cho mới dám trao dùi đánhKhông hẹn nào ai đẩy cửa vôMảng sướng kể gì thân lễ nghĩaHam vui quên hết chuyện dâm ôThói hư thuần thước xưa còn lạcĐừng học làm chi gióng nhảy rôCòn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu truyện như sau : Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm mái ấm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện kèm theo sau : – Đầu đề : Xuân Khuê. – Hạn 5 vần : chờ – hờ – thưa – tơ – thơ. – Phải dùng 19 chữ : một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc. Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh : Xuân KhuêMột mong hai đợi bốn ba chờMười hẹn đêm trăng tám hững hờNửa gối năm canh gà gáy giụcTấc mây sáu cánh nhạn tin thưaTrăm lần cặp mắt đôi hàng lệChín khúc bên lòng vạn mối tơNgàn trượng thành sầu đo thước khóBiếng đem bảy vẻ dệt nên thơPhan Mạnh DanhHọa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y hệt như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại ( phản đề ). Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là : Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận. a. Họa Nguyên Vận : Là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý ( hoặc đối ý ) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng hoàn toàn có thể họa luật. b. Họa Đảo Vận : Là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa hòn đảo vận là họa từ dưới lên. c. Họa Hoán Vận : Là biến hóa thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng. d. Họa Tá Vận : Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung trọn vẹn không tương quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày này hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm. Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4 – 6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt quan trọng không hề tránh được. Hoạ nguyên vận là phải dùng lại vần đồng âm đồng nghĩa tương quan của bài xướng. Nếu dùng vần đồng âm dị nghĩa là không đúng phép hoạ thơ Đường luật. – Hoạ nguyên vận ( mượn vần ) : dùng vần đồng âm đồng nghĩa tương quan ( và cùng từ loại ). – Hoạ tá vận : dùng vần đồng âm dị nghĩa ( và không cùng từ loại ). * Đồng âm đồng nghĩa là cùng âm ( the same sound ) cùng nghĩa ( synonym ) ; đồng âm dị nghĩa là cùng âm ( the same sound ) nhưng khác nghĩa ( the difference meaning ). HOÀNG THỨ LANG sưu tầm và biên soạn. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Họa Thơ gồm có 3 phần chính quan trọng sau đây : Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng hoàn toàn có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước ” thách đố ” cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có tối thiểu 3 yếu tố quan trọng sau đây : 1. Họa vần : Năm vần tức là 5 tiếng ( chữ ) cuối của các câu 1 – 2 – 4 – 6 – 8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, đương nhiên bài họa đó bị lỗi ( Fail ). 2. Bài xướng nói lên ý ( main idea ) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm. 3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó ( trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp ). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại. Ngoài ra bài họa hoàn toàn có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 yếu tố gì thì bài họa hoàn toàn có thể chê yếu tố đó ( gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc ). Tóm lại 3 yếu tố 1 – 2 – 3 là thiết yếu cho 1 bài họa xuất sắc. Sau đây là một thí dụ về xướng họa nổi bật để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Nước Ta. Bài Xướng : TÔN PHU NHÂN QUI THỤC ( của Tôn Thọ Tường ) Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòngNgàn thu rạng tiết gái Giang ĐôngLìa Ngô bịn rịn chòm mây bạcVề Hán trau tria mảnh má hồngSon phấn thà cam dày gió bụiĐá vàng chi để thẹn non sôngAi về nhắn với Châu Công CẩnThà mất lòng anh được bụng chồngBài Họa : TÔN PHU NHÂN QUI THỤC ( của Phan Văn Trị ) Cài trâm sửa áo vẹn câu tòngMặt ngả trời chiều biệt cõi ĐôngNgút tỏa trời Ngô ùn sắc trắngDuyên về đất Thục đượm màu hồngHai vai tơ tóc bền trời đấtMột gánh cương thường nặng núi sôngAnh hỡi Tôn Quyền anh có biếtTrai ngay thờ chúa gái thờ chồngHoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa, dựa trên mạng lưới hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng. Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú. Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ ở đầu cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Những chữ vần thường là thanh bằng ( có một số ít bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc ). Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện kèm theo chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối. Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc ” khắc lục “, là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật. Bài họa phải diễn đạt lại ý chính ( nội dung ) của bài xướng, không được lạc đề. Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng. Thí dụ : Bài xướng : Vườn rau Cẩm TúThầy cho xới lại mảnh vườn hoangCẩm Tú đem phân ủ mấy hàngCủ cải gieo gần dây mướp đắngSu hào tỉa cạnh gốc khoai langThì là diếp cá lên muôn lốiHúng đổi cần tây mọc khắp đànTứ phía rau xanh nhìn mát mắtTha hồ cải tổ bữa ăn … sangCẩm TúBài hoạ : Vườn rau Cẩm TúCẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoangRau xanh thẳng tắp rất ngay hàngNgò om óng mượt bên giàn mướpHúng quế thơm lừng kế luống langBí rợ tần ô lên bít lốiDưa leo ớt hiểm mọc đầy đàngChiều chiều đứng ngắm lòng thanh thảnCuộc sống quê nghèo ngẫm lại … sangHoàng Thứ LangKhông được dùng lại chữ thứ 6 ( chữ kế cuối ) trong các câu cước vận ( câu 1-2-4 – 6-8 ) của bài xướng và toàn bộ những bài đã hoạ trước. 5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng. Coi như bài hoạ là bản copy những nét cơ bản về ý và vần của bài xướng, thế cho nên bài họa phải cùng một tựa đề với bài xướng. Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải thuận tiện như nhiều người đã lầm tưởng ! Hoạ sai một vần gọi là xuất vận : không được. Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý : không được. Hoàng thứ Lang sưu tầm và biên soạn * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó. Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì thế nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng. Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị. Trường hợp bất khả kháng không hề đối luật được thì hoàn toàn có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không cung ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách. Bắt đầu những bài hoạ sau đó ( nếu có ) thì hoàn toàn có thể dùng luật gì cũng được. Hoạ thơ là ” vẽ lại ” hình ảnh của bài xướng cho nên vì thế phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần. Hoạ sai ý bài xướng là không đạt. Hoạ sai bất kỳ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận : không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng. Hoạ sai nghĩa bất kể chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý : không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng. Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó. Khi bạn hữu ( thi hữu ) chung vui xướng họa với nhau, hoàn toàn có thể dùng thể thức Họa Tá Vận ( tức là mượn vần ) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui tươi mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề ( nội dung của bài xướng ). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai, xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ. Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào họa nguyên vận theo chính họa được. Chúng ta hoàn toàn có thể họa tá vận ( mượn vần ) theo bàng họa là xa xa, từ xa, đàng xa v.v… ví dụ điển hình. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi ( vì thế mới bị xuất ý : không đạt ), nhưng cốt để cùng nhau vui tươi mà thôi. Thông vận, bàng đối và bàng hoạ … không xuất sắc. Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng. Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Thí dụ : – Hạn đề : ” Trống treo ai dám đánh thùngBậu không ai dám dở mùng chun vô ” – Hạn vận : Xô – Cô – Vô – Ô – RôBài họa : Nào phải là ai dám giục xôThuận tình trước hết tự nơi côCó cho mới dám trao dùi đánhKhông hẹn nào ai đẩy cửa vôMảng sướng kể gì thân lễ nghĩaHam vui quên hết chuyện dâm ôThói hư thuần thước xưa còn lạcĐừng học làm chi giống nhảy rôThí dụ 1 : a. Họa nguyên vận : Bài xướng : TƯƠNG TƯTương giang hai đứa ở hai nơiUống cạn dòng sông nhớ trọn đờiChỉ thắm xe lơi người mộng hỡiTơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơiVần thơ nức nở mi nhòa lệNét chữ run run ý cạn lờiĐịnh số an bài mang khổ hậnĐêm trường thổn thức máu tim rơiHoàng Thứ Lang11 / 8/05 Bài họa : TƯƠNG TƯMỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơiVề đâu trên vạn nẻo đường đờiMưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡiTuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơiMuốn nhắn đôi câu mà nghẹn ýMong trao mấy tiếng lại ngăn lờiDòng sông ly biệt nào chia lốiNgắm dải Ngân Hà đếm lệ rơiHoàng Thứ Lang11 / 8/05 b. Họa đảo vận : Bài xướng : TƯƠNG TƯTương giang hai đứa ở hai nơiUống cạn dòng sông nhớ trọn đờiChỉ thắm xe lơi người mộng hỡiTơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơiVần thơ nức nở mi nhòa lệNét chữ run run ý cạn lờiĐịnh số an bài mang khổ hậnĐêm trường thổn thức máu tim rơiHoàng Thứ Lang11 / 8/05 Bài họa : TƯƠNG TƯLất phất bên thềm tuyết trắng rơiNiềm riêng ấp úng chẳng nên lờiHai hàng lệ tủi than trời hỡiMột áng thơ sầu khóc bạn ơiRẽ yến chia oanh hờn số kiếpLìa loan rã phụng lỡ duyên đờiSông Tương uống cạn dòng thương nhớGiang vĩ giang đầu đứa mỗi nơiHoàng Thứ Lang11 / 8/05 c. Họa hoán vận : Bài xướng : TƯƠNG TƯTương giang hai đứa ở hai nơiUống cạn dòng sông nhớ trọn đờiChỉ thắm xe lơi người mộng hỡiTơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơiVần thơ nức nở mi nhòa lệNét chữ run run ý cạn lờiĐịnh số an bài mang khổ hậnĐêm trường thổn thức máu tim rơiHoàng Thứ Lang11 / 8/05 Bài họa : TƯƠNG TƯGởi gió nhờ mây nhắn mấy lờiTrao người yêu dấu của tôi ơiĐường mơ vạn nẻo đành riêng lốiBến mộng đôi bờ phải khác nơiBóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổĐèn khuya gác vắng tủi châu rơiAi xui hai đứa mình dang dởChẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đờiHoàng Thứ Lang11 / 8/05 d. Họa tá vận ( mượn vần ) : Bài xướng : TRUNG THUTrăng thu toả sáng nhớ xa xămTháng tám chờ trông đến bữa rằmMẹ dán lồng đèn chơi suốt sángCha làm trống ếch đánh quanh nămXa rồi cảnh cũ lòng se lạnhTiếc mãi rất lâu rồi lệ ướt dầmChiếc lá chao mình trong gió sớmNghe chừng vọng lại thoáng dư âmHoàng Thứ LangOct 05, 2006B ài họa : XIN XĂMMẹ dẫn lên chùa để thỉnh xămHôm nay trăng sáng đúng đêm rằmCầu xin phúc lộc vào nguyên thángKhấn nguyện bình an đến trọn nămGiữa Hạ oi nồng đừng nắng gắtTrung Thu thoáng mát chớ mưa dầmĐưa tay vói rút ồ hên quáThượng thượng ngon lành chẳng bị âmTrâm AnhOct 06, 2006HO ÀNG THỨ LANG. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai, dễ đọc, để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu. Điệu thơ gồm có 3 phần chính : Thơ Đường luật nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa ( 2-2-3 hoặc 4-3 ) Nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng. Nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4 – 6-8 xen kẻ tiếng không có dấu với tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. HOÀNG THỨ LANG * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * ĐỐI NGẪU – LÀ MỘT VẺ ĐẸP ĐẶC SẮC, LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.Tôi được biết, người sáng tác thơ luật Đường khi phát hiện một cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực. Chưa xong. Người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật ; số chữ trong bài có thanh trắc phải xê dịch số thanh bằng. Nếu ta gọi chữ có thanh bằng là số ( + ), chữ có thanh trắc là số ( – ), thì luật âm khí và dương khí này thăng giáng bù trừ sát sao đến từng liên thơ, đến cả bài thơ. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân đối, có ý nghĩa triết học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật. – Ý nghĩa triết học nêu trên còn biểu lộ rõ ở phép đối ngẫu. Trong một liên thơ ( hai câu ) được gọi là có đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạc. Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ này như một điều bắt buộc. Từ đầu thế kỷ trước, đương đầu với sự thắng thế của trào lưu thơ mới, Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Luật Đường, ông đã sáng tác nhiều bài thơ không đối, chỉ giữ lại có luật hạn câu, hạn chữ, hạn vận, hạn bằng trắc. Vũ Hoàng Chương xem những bài thơ đó chỉ là một thực nghiệm. Sau đó, song song với việc sáng tác thơ mới, ông còn sáng tác nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh khác ( như bài đa thủ “ Giấc mơ tái tạo ” ). Chúng ta nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ luật Đường thì đừng có khi nào tức bực giữa khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai cặp đối ở hai câu thực, luận và nóng vội cho rằng : làm gì mà phải đối ngặt nghèo vậy. * * * – Đối ngẫu trong thơ đường luật bát cú, thất ngôn, ngũ ngôn nói tổng quát là có 2 phép : Phép chỉnh đối và phép khoan đối. Dưới đây chúng tôi xin được trao đổi về 2 phép đối này. Các ví dụ được nêu ra để nghiên cứu và phân tích, chúng tôi lấy từ 1 số ít bài thơ đã in trong “ Thơ Đường quê lụa ” tập 5, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008. Nguyễn Thu Hà, người trẻ tuổi nhất của CLB, trong bài “ Duyên quê ”, cặp thực, đối như sau : Anh nắm bàn tay thon ấm cúng, Em cười đôi mắt sáng lộng lẫy. Thật là chỉnh, thật là chính danh : anh với em, bàn tay với đôi mắt ( Danh từ so với Danh từ ), Thon với sáng ( Tính từ so với nhau ), ấm cúng với lộng lẫy ( Trạng từ láy đối nhau ). Hai câu thơ tình đằm thắm đến thế mà lại không thấy lả lơi. Thu Hà đã kêu gọi phép đối rất nghiêm để đạt hiệu suất cao. Hạnh Anh ( Đỗ Biện ), trong bài “ Đêm thu ” câu 5,6 đối như sau : Hoa cúc bâng khuâng ly rượu ngátHoa nhài thao thức chút hương phôi. Cặp đối chính danh này rất nghiêm về thể thức, nhưng lại rất hào hoa. Cụ Tạ Đăng Viên, ngoại 80, có bài “ Tự thọ ” rất hóm hỉnh, cụ có cặp luận : Kính mắt gà đeo tròng chấp chớiGậy càng cua chống bước lon ton. Bằng hai câu đối ngặt nghèo, như vẽ nên, như trông thấy một cụ đại thọ nhanh nhảu hồn nhiên trước mắt ta. Để cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh động hơn. Ví dụ : Còn chăng lời hẹn bên trang sách, Hay đã tàn theo ánh lửa đèn. Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại xét : Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau ; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối. Tất cả các liên thơ mà câu trên mở màn bằng mấy chữ tương tự như như : còn chăng …, đã sinh …, bỗng dưng …, ứng với đầu câu dưới là các chữ tựa như như : hay đã …, phải có …, để mà …, v.v. thì liên thơ đó đã theo phép đối nói trên. Ví dụ : Nghèo sạch, thanh danh nên gắng giữGiầu sang, khó chiều chuộng chớ nên chơi. Câu trên, “ thanh danh ” là danh từ, câu dưới “ không dễ chiều ” là tính từ, xét thế thì quả là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng ( không theo nghĩa thật ), thì chữ “ khó ”, chữ “ thanh ” lại là tính từ ; Chữ “ danh ” và chữ “ tính ” lại là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối ngặt nghèo với nhau. Phép đối này người ta tận dụng sự đồng âm dị nghĩa để Tá tự đối ( như : hai mái trống tung đành chịu dột / tám giờ chuông điểm phải nằm co – của Tú xương ). Ví dụ : Học bẩy nghề còn lo thất nghiệpLàm ba vụ vẫn đói tư mùa. Hơi tiếc, ở câu dưới viết : ba vụ so với tư mùa, tuy là đúng có nội đối ở trong câu, nhưng không hay bằng câu trên : bẩy cái nghề và thất ( mất ) cái nghiệp. Câu dưới, nếu không vì luật bằng trắc, mà viết là : “ Làm tư vụ vẫn đói tứ mùa ”, thì câu đối này được xếp vào hạng tuyệt diệu. Phép đối này được xem như là phép số tự đối có kèm theo lối chơi chữ ( hoàn toàn có thể liên hệ đến : nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc – của bà Huyện Thanh Quan ). Ví dụ : Màn trời chiếu đất con người khổNước vật thuyền xơ cá biển nghèoNếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng bất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy : màn trời so với chiếu đất ; nước vật so với thuyền xơ ; đuôi câu trên ( con người khổ ) đối rất chặt với đuôi câu dưới ( cá biển nghèo ). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân đối. Đây là cú trung đối. Tuy nhiên còn một số ít phép đối khác tất cả chúng ta ít vận dụng, xin được dẫn ra đây để cùng tìm hiểu thêm. a ) Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ ? Xương gà da cóc, có đau không ? ( Nguyễn Khuyến ) b ) Càng nóng bao nhiêu thời càng mátYêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày ( Hồ Xuân Hương ) c ) Công đức tu hành, sư có lọngXu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe. ( Tú Xương ) Chúng ta chú ý : Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã tổ chức triển khai từ ngữ ở từng câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai liên đối a, b nêu trên vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ a, b trên tất cả chúng ta quy vào phép Tựu cú đối. Trong câu của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai thành ngữ để chọi nhau : công đức tu hành chọi với xu hào rủng rỉnh. Mặt khác đuôi của từng câu lại đối rất chặt với nhau : sư có lọng so với mán ngồi xe. Phân tích đặc thù này để Tóm lại : đây cũng là phép Tựu cú đối như a và b. Cú trung đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của câu văn na ná như nhau, nên còn có tên chung là Đương đối. Cụ Trần Tuấn Ngọc, trong bài “ Tự nhủ ”, ( Bạn và thơ là xuân – NXBVHDT, TP.HN 2004 ), có câu luận : Chân bước vững, đường chiều khấp khểnhRừng cây rậm rạp, trúc vươn cao. Đây chính là phép Giao cổ đối : chân bước vững đối chéo xuống với trúc vươn cao, và rừng cây rậm rạp đối chéo lên với đường chiều gồ ghề. Trong buổi lễ tế “ Trận vong tướng sỹ ” thế kỷ 19, quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành có sai trưng câu đối chữ Hán ( nay dịch nghĩa ) như sau : Bóng chiều đã ngả đâu quê cũXưa nay chinh chiến mấy ai về. Câu trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu. Câu dưới lấy từ thơ Vương Hàn, bài Lương Châu Từ. Cái hay của đôi câu đối này là : Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. Câu 1 có đại ý là cảm thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là quá hợp với nội dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ. Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không chịu ràng buộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý. Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng vớinhau. Những bậc cao niên khuyên rằng, nếu một khi ta chưa thật thạo về các phép đối, thì chỉ nên sử dụng các phép chỉnh đối, lưu thủy đối, cú trung đối. Còn các phép đối khác, tất cả chúng ta hãy chỉ làm quen, giúp tất cả chúng ta nhận ra được các dạng thức đối khác nhau. Vẫn phải thưa thêm : các phép đối thơ, dù ở dạng thức nào đều phải hội đủ 3 đặc thù : – Đối ý. Ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ trợ ý nghĩa cho nhau. – Đối thanh âm. Chí ít là các chữ nằm ở vị trí 2, 4, 6, 7 ( Thơ thất ngôn ) và 2, 4, 5 ( Thơ ngũ ngôn ) nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc. – Đối từ loại : danh từ so với danh từ, động từ so với động từ, tính từ so với tính từ. Phải nắm được các phép biến hóa từ loại ở các ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên, cũng có phép đối không nhu yếu đối từ loại như theo phép chiếu chữ, mà ở đó lại có sự xoay chiều để đối chéo cho nhau. Viết bài này tôi chỉ nhằm mục đích mục tiêu trao đổi thêm về yếu tố đối ngẫu trong thơ Đường luật. Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực, luận chính là vẻ đẹp rực rỡ, và là một trong những điều kiện kèm theo cần và đủ để nhận ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì chẳng khác gì “ Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm ” thật là nhạt nhẽo và vô vị. Trong bài này, việc đặt yếu tố của tôi là chắc như đinh đúng nhưng việc lấy ví dụ để nghiên cứu và phân tích thì hoàn toàn có thể có chỗ còn nông cạn, thậm trí có chỗ còn thiếu sót. Để góp một chút ít lửa thắp sáng cho thơ Đường đất Việt, rất mong bạn đọc rộng lượng và cùng sát cánh. NGUYỄN VĂN THỤChủ nhiệm CLB thơ đường TP.HN * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * ( Ghi chú : Những bệnh và lỗi sau đây là những sưu tầm trên mạng. Chỉ riêng luật Bằng Trắc và Niêm Luật thì phải theo, còn ngoài những ; tùy theo mỗi người có một quan điểm riêng, chứ không bắt buộc, ai cảm thấy thích thì theo ). Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường luật nổi tiếng với niêm luật ngặt nghèo và mức độ khó khi làm một bài thơ hoàn hảo. Sau đây, tôi xin phép viết lại một số ít tài liệu mà tôi đã sưu tầm được để các bạn yêu quý thể loại thơ này có thêm nhiều kỹ năng và kiến thức về nó. – 12 lỗi, bệnh trong thơ Đường Luật. 1. Thất luật. 2. Thất niêm. 3. Lạc vận / Cưỡng vận. 4. Thất đối. 5. Khổ độc. 6. Trùng vận. ( Điệp Vận ) 7. Trùng từ. ( Điệp Từ ) 8. Trùng ý ( Hiệp Chưởng ) 9. Phạm đề – Mạ đề. 10. Điệp điệu. 11. Bình đầu. 12. Thượng vỹ. 13. Điệp thanh. 14. Điệp âm. 15. Đại vận. 16. Tiểu vận. 17. Phong yêu. 18. Hạc tất. 19. Chánh nữu. 20. Bàng nữu. * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * Phân biệt thơ Đường luật và thơ Đường : Rất nhiều người làm thơ đã lầm lẫn gọi thơ Đường luật là thơ Đường. Thật sự thì đây là 2 ý niệm trọn vẹn khác nhau. – thơ Đường luật ( ĐL ) : là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Tàu. Các bài thơ này bên Trung quốc được gọi là Luật thi. Sang Nước Ta, Thi luật gọi là thể thơ ĐL. – thơ Đường hay Đường thi : là những bài thơ của các thi sĩ Nước Trung Hoa làm dưới thời nhà Đường, nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ. Trong số đó có một số ít được làm theo thể thơ ĐL, số còn lại làm theo các thể thơ khác, hầu hết là thơ cổ phong. Tóm tắt các lỗi trong thơ Đường Luật : Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng. Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2 : – Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3 – Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5 – Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7 – Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1T óm lại : ” Chữ thứ hai trong bất kể câu nào trong một bài thơ ĐL, đều phải có cùng bằng hoặc trắc với chữ thứ sáu của câu đó “. – Trong 5 vần mà có một vần khác xen vào. – Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận. Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ ĐL. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ ĐL nữa. – Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu vần, và chữ thứ năm các câu không vần đáng là từ bằng mà đổi ra trắc – Trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu vần và chữ thứ ba các câu không vần đáng là bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc. Thơ ĐL chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng. Theo thi luật chính thức, nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau và không phạm lỗi. Tuy nhiên, để tránh nghe đọc trùng lặp âm vận không hay, trong bài thơ không nên để hai vần đồng âm gần nhau. Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ. Trong bài thơ ĐL nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dầu dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng ( câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại ). Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề. Điệp điệu là khi nhiều câu liên tục ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ. Bài thơ mà có nhiều câu liên tục khởi đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố ý làm có mục tiêu rõ ràng. Trong bài thơ ĐL TNBC nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tục ( nhiều hơn 3 ) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ. Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu. Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận. Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận. Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu. Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất. Khi câu có từ 3 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu phạm lỗi chánh nữu. ( Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế … thì được tính giảm đi 1 lần ) Trong một liên có từ 4 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu thì phạm lỗi Bàng Nữu. ( Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế … thì được tính giảm đi 1 lần ). * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *

_____________________________

… Trong trái tim nhỏ bé của tôi dường như có chứa một cái gì đó thật lớn lao… có lẽ, đấy là tình yêu… (Ntd Hoa Viên)

*-Hoa Viên – Thơ: Ntd Hoa Viên****- *-Hoa Viên – Thơ ĐL – Ntd Hoa Viên****-

*-Thơ Lưu Trữ (Ntd Hoa Viên)_____________________________

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories