Thế nào là sách giáo khoa? – Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM

Related Articles

Nghiên cứu – Phê bình – Trao đổi

Lại sôi lên về sách giáo khoa!

Trên trang mạng GDVN chiều 19-3-2019 liên tục đưa tin về bức xúc của xã hội : hàng năm tiêu tốn lãng phí hàng ngàn tỉ đồng từ SGK không dùng lại được. Vì sao ? Vì SGK được phong cách thiết kế để học viên làm bài tập luôn vào đó. Khi đã viết vào đó, hàng triệu em, mỗi em một phong thái đúng, sai, dài, ngắn, chữ đẹp và không đẹp, dây mực, tẩy xóa … nên không hề dùng lại được. Như thế là hiển nhiên rồi, không có gì phải bàn thảo .

Nhưng đó có phải là sách giáo khoa không ? Nguồn gốc yếu tố chính là ở đây. Cần thẳng thắn nhìn nhận để đồng thuận trong cách xử lý .

Cùng một công dụng là tài liệu cho người học, ở bậc Đại học gọi là giáo trình. Ở bậc Trung học đại trà phổ thông và Tiểu học gọi là sách giáo khoa. Khác nhau ở trình độ người học được bộc lộ ở nội dung biên soạn .

Giáo trình không có bài tập mà xong mỗi học phần thì sinh viên phải làm khóa luận. Còn ở Tiểu học và Trung học, gọi chung là Trung học đại trà phổ thông, học bài nào, có bài tập, học viên nương theo những câu hỏi tức là đầu bài, đề bài, để làm bài tập đó. Bài học đó biểu lộ học viên có hiểu bài học kinh nghiệm không và sức hiểu, sức diễn đạt đến đâu. Qua bài tập, giáo viên thấy được thực học của mỗi học viên từ đó kiểm soát và điều chỉnh sự chú ý quan tâm đến từng học viên. Em nào sáng dạ, nhanh ý, mưu trí, học giỏi, có sự quan tâm khác. Em nào tiếp thu kém, diễn đạt kém sẽ phải chú ý quan tâm hơn. Phụ huynh học viên cũng sẽ thấy được thực học của con mình. Đại khái như vậy .

Chúng tôi không đi sâu vào định nghĩa, giới thuyết thế nào là giáo trình, thế nào là SGK mà bằng kinh nghiệm tay nghề học tập đã qua, từ Tiểu học đến Đại học để xem xét cái gọi là SGK lúc bấy giờ, tức là SGK được phong cách thiết kế để học viên làm bài tập luôn vào đó .

Tôi sinh năm 1945. Không qua lớp Mẫu giáo vì hồi đó ( khoảng chừng 1950 – 1954 ) chưa có lớp Mẫu giáo, giờ đây gọi là trường Mầm non. Mãi đến 1958, khi mở màn Hợp tác hóa ( 1958 ) thì mới có Nhà trẻ, tiếp đó có lớp Mẫu giáo. Tôi tập đọc tập viết tập làm bốn phép tính cơ bản là học ké ở lớp Bình dân học vụ. Lớp Bình dân học vụ hồi đó y hệt chương trình VNEN nhập của Colombia giờ đây. Buổi trưa sau hồi kẻng hay mõ thì ai muốn đi học, đến một nhà nào đó rộng bụng rộng nhà. Vì có nhà rất rộng nhưng họ không muốn cho lớp BDHV học nhờ. Thầy giáo là một người trong xóm, đủ sức dạy được đọc, ghép vần, viết và làm bốn phép tính. Trong lớp học thì đủ trình độ, đủ lứa tuổi. Từ trẻ con như tôi mới 8 tuổi đến người già 50-60 tuổi, thậm chí còn hơn. Đến nay tôi vẫn không hiểu được làm thế nào mình lại theo học được ở cái lớp học Sơ học tổng hợp ấy rồi cũng biết đọc biết viết biết làm bốn phép tính để năm 9 tuổi đi học lớp Một. Xin vào lớp Một ngày ấy dễ lắm, không khó như giờ đây. Muốn vào học thì cha mẹ có lời với nhà trường, với thầy giáo cô giáo đứng lớp rồi sách vở đến mà học. Tôi học đến lớp Bốn vẫn chưa có SGK. Tôi không giữ được vở học hồi ấy nên không nhớ sự làm bài tập như thế nào. Nhưng đại khái thầy giáo ra bài tập bằng cách viết lên bảng, học trò chép đề bài vào vở của mình rồi làm, rồi xếp lên bàn cho thầy chấm điểm. Đơn giản vậy thôi. Hồi đó và lê dài đến sau này, sự học ở Tiểu học chỉ có bảng đen phấn trắng và vở học của học trò. Cũng không nhớ đến khoảng chừng nào thì mới chia ra vở chép bài ( vở học ) và vở làm bài tập ( vở bài tập ) .

So-540--Anh-minh-hoa---The-nao-la-sach-giao-khoa---Anh-1

Lên lớp 5, tức là đầu cấp II, vào năm 1958, tôi mới có sách giáo khoa. Mới chia ra những môn học : Toán, Văn, Sử, Địa. Lên lớp 6, thêm Vật lí, Hóa học … Tôi học lớp 8 ở cấp III Thọ Xuân ( Thanh Hóa ) từ 1961. Ngày nay cứ nhớ cảm xúc thấp thỏm thầy dạy Toán, nhất là những môn Lượng giác hay Hình học, bảo những em giở phần câu hỏi bài tập ra, ở trang … làm cho thầy những bài số … Thầy ra bài càng ít thì càng mừng … Từ câu hỏi trong SGK chúng tôi phải chép lại ra vở bài tập để làm bài. Có thầy cô dễ tính, bảo không phải chép lại cũng được, theo câu hỏi mà làm vào vở bài tập .

SGK hồi đó còn ít. Chỉ 1 số ít bạn mái ấm gia đình có điều kiện kèm theo mới mua trọn bộ, còn tùy nghi. Nếu không có SGK cho riêng mình thì chép nhờ ở những bạn khác. Hồi đó trong lớp chia ra tổ nhóm, giúp sức nhau tận tình vui tươi lắm. Bây giờ đời sống khấm khá lên. Em nào cũng có đủ SGK hay buộc phải đủ. Đó là điều kiện kèm theo tốt cho những em học tập. Nhưng cũng tước đi thời cơ nuôi dưỡng lòng nhân ở những em : san sẻ, trợ giúp nhau … Nói như vậy không có ý rằng chỉ trong nghèo khó thiếu thốn mới có thời cơ giáo dục đạo đức. Không phải đâu. Vấn đề là trong điều kiện kèm theo rất đầy đủ thì phương pháp giáo dục phải thay đổi nhưng vẫn phải hướng đến tiềm năng giáo dục nhân cách. Nếu cùng một khối học mà chia ra lớp có lắp máy điều hòa và không có tùy theo điều kiện kèm theo kinh tế tài chính từng em thì là phản giáo dục .

Trở lại SGK lúc bấy giờ. Hiện đại hóa giáo dục là tất yếu. Trong đó có biên soạn SGK. Nhưng theo chúng tôi, qua kinh nghiệm tay nghề học tập từ Sơ học ( không có SGK ) đến Trung học đại trà phổ thông, thiếu SGK, đến Đại học có khi vẫn thiếu sách giáo trình … mà vẫn học tốt. Còn giờ đây SGK nặng còng lưng học trò, không dám nói là sự học không tốt hơn, nhưng rõ ràng là phi lí, xã hội kêu ca, phàn nàn. Nhưng tiếng kêu của cha mẹ học viên, của dư luận xã hội nhiều năm qua vẫn như “ ếch kêu dưới vũng tre ngâm ”. Xin đi vào đơn cử .

SGK phong cách thiết kế luôn cả phần câu hỏi, bài tập, làm bài … thì không phải là SGK mà là vở bài tập biến hóa đi và SGK theo đúng nghĩa cũng biến hóa đi. Là giáo khoa hóa vở bài tập và bài tập hóa sách giáo khoa .

Đây là điều tai hại về nhiều phương diện :

1) Chép lại đầu bài, câu hỏi vào vở bài tập, hoặc không phải chép lại nhưng làm bài vào vở bài tập. Sau khi làm nháp rồi chép lại vào vở là dịp để học sinh được sống lại bài giảng của thầy. Việc chép lại câu hỏi không chỉ luyện chữ mà chính là luyện cho tư duy của các em. Các em phải rất chăm chú, tập trung vào làm bài. Sự tiếp thu bài học sẽ sâu hơn, phong phú, ấn tượng hơn. Còn là tập cho học sinh biết trình bày, thể hiện một trang vở, một dòng chữ. Tôi rất ấn tượng, quí mến một học sinh, không nhớ ở Long An hay Đồng Tháp, vở học tiếng Việt được em viết lại, trình bày vào trang vở rất đẹp, đẹp như một bức tranh. Em thích hội họa một phần. Nhưng tập trình bày bài vở đẹp là điều rất qúi. Quí cho cả đời em sau này. Tục ngữ nói nét chữ nét người là rất chí lí. Thiết kế SGK như hiện nay là tước đi cơ hội rèn luyện nét chữ nét người của học sinh. Nên nhớ đối tượng của giáo dục THPT là học sinh, là trẻ em, mọi cái đều phải học, chưa phải là các bác sĩ, viết cái toa thuốc chỉ người trong nghề mới hiểu được.

2 ) Không phải chép lại đầu bài còn làm cho học viên lười biếng đi. Bẩm sinh của trẻ là ham chơi ngại học, ngại thao tác. Chỉ có rất ít em ham học, siêng năng ghi chép, làm bài tập .

Sự lười biếng này còn thôi thúc một khuynh hướng nguy hại, tệ hại hơn, là chỉ cần tác dụng đúng là được, còn phương pháp để đi đến sự đúng, không cần biết. Đây chính là triệt tiêu đậm chất ngầu phát minh sáng tạo của mỗi thành viên học viên, khuyến khích tâm lí ăn xổi ở thì, miễn điền vào cho xong bài .

Quá trình làm bài tập, chép lại câu hỏi, làm nháp, chép lại vào vở cho gọn ghẽ chính là sự thực hành hoạt động giải trí phát minh sáng tạo của trẻ. SGK mới đã tước bỏ quy trình này, thay vào đó là tâm lí thực dụng, gà công nghiệp mì ăn liền ngay từ tuổi ấu thơ. Đây chính là hành vi phản giáo dục nguy khốn nhất. Không hướng trẻ vào sự phát minh sáng tạo, cố gắng nỗ lực mà hướng vào thực dụng, ăn sẵn, lười biếng …

3 ) Sách giáo khoa, về mặt Nhà nước, là có tính pháp qui. Từ khung chương trình được bộc lộ đơn cử ra SGK. Về mặt xã hội, cha mẹ học viên và bản thân học viên thì ba từ sách giáo khoa là thiêng liêng, là bắt buộc, là phải theo, phải có, phải tuân thủ. Điều đó trọn vẹn đúng với SGK cổ xưa và cho đến trước cải cách Giáo dục đào tạo và Đổi mới SGK. Còn Bài tập hóa SGK là một sự lạm dụng uy tín SGK để vụ lợi. Đúng nghĩa SGK là SGK về những môn học chính thức. Còn sách bài tập, sách tìm hiểu thêm, sách nâng cao … chỉ là tài liệu phụ trợ, không có tính pháp qui, bắt buộc. Giáo khoa hóa vở bài tập và tài liệu phụ trợ chính là sự vụ lợi kinh khủng : mỗi năm cha mẹ học viên phải chi hàng nghìn tỉ đồng để mua SGK mới. Mối lợi khổng lồ đó vào tay ai ai mà chẳng hiểu. Trao đi đổi lại bao nhiêu năm nay vẫn không xử lý được chính là lẩn tránh cái điểm cốt tử này .

4 ) Có xử lý được tình hình này không ? Giải quyết như thế nào ?

Cái khó không phải là việc biến hóa lại cách biên soạn SGK, không phải ở nội dung SGK mà là ở chỗ có dám đổi khác không ? Có dám từ bỏ hàng nghìn tỉ mỗi năm không ?

Chúng tôi nghĩ sẽ rất dễ xử lý nếu trở lại triết lí giáo dục của Hồ Chí Minh ; xa hơn, của Khổng Tử, của những thế hệ giáo chức đáng kính như Võ Nguyên Giáp, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Bửu … Gần, như giáo dục thời chiến tranh – cách mạng .

Giáo sư Nguyễn Kim Đính, khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP.HN cũ, năm nay đã 89 tuổi, vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Cụ nhớ lại, khi cố GS Đặng Thai Mai giảng thiên Đại học của Khổng Tử ( trong sách Tứ thư ) cho học trò lớp Văn khoa Đại học tiên phong, năm 1957, ở giảng đường Lê Thánh Tông, TP. Hà Nội. Sau khi giảng dạy nội dung thiên Đại học, Giáo sư vận dụng rất đơn cử : Minh minh đức của dân tộc bản địa Nước Ta, ở Nước Ta là ý chí độc lập tự cường, quyết không chịu làm nô lệ. Sự chí thiện phải đạt được hiện tại, trong nhà trường là thầy phải dạy thật tốt, trò phải học thật tốt .

Ngày 21-10-1964, sau hơn 2 tháng đế quốc Mỹ gây hấn với “ sự kiện Vịnh Bắc bộ ” ( 5-8-1964 ), quản trị Hồ Chí Minh đến thăm trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hà Nội, Người nói : “ Làm thế nào để nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước ” .

Trong hồi ký Tôi vào Đại học, nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký nhớ lại lớp Văn sơ tán về Đại Từ, Thái Nguyên. Anh được những thầy, những bạn chăm nom rất tận tình. Các nhà thơ Lê Thành Nghị, Lê Quang Trang lúc đó là cán bộ lớp đã dành cho Nguyễn Ngọc Ký sự chăm nom đặc biệt quan trọng, không khác gì ruột thịt. Một người khuyết tật, bị liệt cả hai tay, phải viết bằng đôi chân, ở giữa lớp học đó, và sau này đã trở thành nhà giáo, nhà văn được dư luận xã hội tôn vinh .

Nhà văn Bùi Quang Tú, hội viên Hội Văn nghệ Đồng Nai cùng với vợ chồng nhà thơ Đặng Nguyệt Anh, nhà giáo Mai Xuân Nhuần, đồng môn với tôi ở cấp III Thọ Xuân khóa 1961 – 1964 … là những nhà giáo được chi viện cho mặt trận miền Nam. Dưới mưa bom bão đạn, những anh chị miệt mài dạy học cho đồng bào và chiến sỹ để có thêm sức mạnh đánh Mỹ và thắng Mỹ … Họ đã làm được như Khổng Tử : Hối nhân bất quyện ( Dạy người không biết mệt ) … Giáo dục đào tạo thời chiến tranh – cách mạng ở cả hai miền Nam – Bắc là di sản quí báu cho giáo dục thời bình. Tiếc rằng đã không được phát huy. Khi giáo dục đã kinh doanh thương mại hóa, giá hóa đào tạo và giảng dạy … thì giáo khoa hóa vở bài tập là hệ quả tất yếu .

Về triết lí giáo dục lúc bấy giờ không phải là lúng túng mà là quên lãng di sản giáo dục quí báu của trái đất ( như Khổng Tử ) và dân tộc bản địa, như đã nói trên. Trót quên, lỡ quên, thì nhớ lại. Đấy là yếu tố cần nhất của giáo dục – huấn luyện và đào tạo lúc bấy giờ .

Hà Nội, 19-3-2019

Chu Giang

Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 540

———————

Kì sau: Thế nào là thầy giáo?

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories