Thánh lễ – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Thánh lễ là phụng vụ thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện trong nhiều dạng của Kitô giáo Tây phương. Thánh lễ (lễ misa) là thuật ngữ dùng chủ yếu trong Giáo hội Công giáo Rôma[1], Anh giáo[2], Giáo hội Luther[3], Phong trào Giám Lý[4][5], Chính thống giáo kiểu Tây phương và Giáo hội Công giáo Cổ.

Thánh lễ được triển khai ( dâng lễ ) bởi một hay nhiều linh mục hay Giám mục với sự tham gia của những giáo dân. Thánh lễ thực thi bởi nhiều linh mục / Giám mục gọi là Thánh lễ đồng tế, trong đó có một vị là Chủ tế. Thông thường Thánh lễ được triển khai trong nhà thời thánh, nhưng cũng hoàn toàn có thể thực thi ở nơi khác như bệnh viện, trường học, nhà riêng. Không chỉ vậy Thánh lễ còn là ngày tưởng niệm một vị Thánh nào đó trong Thánh đạo .Tùy theo điều kiện kèm theo, những nhà thời thánh có lịch Thánh lễ riêng. Tuy mỗi ngày những linh mục đều dâng Thánh lễ, những giáo dân chỉ buộc dự Thánh lễ vào ngày chúa nhật và những ngày lễ trọng do Giáo hội pháp luật. Những ngày thường trong tuần, mỗi nhà thời thánh thường thì chỉ có một hoặc hai Thánh lễ vào sáng sớm hay buổi chiều. Ngày chúa nhật do có nhiều giáo dân tham gia, những nhà thời thánh có nhiều Thánh lễ hơn. Vào chiều thứ bảy hoàn toàn có thể cử hành Thánh lễ theo ngày Chúa Nhật .

Thánh lễ theo nghi thức hiện nay được cử hành ở mọi giáo xứ đã được Giáo hoàng Phaolô VI ban hành vào ngày 3 tháng 4 năm 1969, trong bối cảnh nhu cầu của việc canh tân Phụng vụ Thánh theo tinh thần của Công đồng Vaticanô II, do vậy thánh lễ hiện nay còn được gọi là thánh lễ Novus Ordo (thánh lễ theo nghi thức mới, thánh lễ theo kiểu Cách tân). Trước kia Giáo hội Công Giáo cử hành thánh lễ theo nghi thức đã có từ thời Công đồng Trentô, mà quen gọi là thánh lễ Usus Antiquior (thánh lễ theo nghi thức Truyền thống, thánh lễ Cổ truyền). Hai nghi thức thánh lễ này có sự khác biệt đáng kể về cấu trúc.

Trước đây, thánh lễ được quen gọi là lễ Misa. Chữ misa có nguồn gốc như sau: trước kia để kết thúc thánh lễ, vị chủ tế sẽ xướng câu Ite, missa est (Hãy đi, anh em được sai đi) và giáo dân đáp Deo gratias (Tạ ơn Chúa). Trong câu xướng lên của vị chủ tế thì chữ missa có nghĩa là sai đi, ý muốn nói rằng sau khi tham dự thánh lễ xong và ra về thì tín hữu được mời gọi, được sai đi để loan báo Tin Mừng và thực hành Lời Chúa. Về sau chữ missa được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là không chỉ nói đến việc sai đi, mà còn là toàn bộ cử hành mà người tín hữu tham dự và lãnh nhận trước khi được sai đi. Do vậy chữ misa có thể được hiểu là thánh lễ. Trong nghi thức thánh lễ được ban hành sau Công đồng Vaticanô II thì câu xướng Ite, missa est được thay thế bằng Ite in pace (Hãy ra đi trong bình an).

Thánh lễ trong Công giáo Rôma[sửa|sửa mã nguồn]

Sau đây là cấu trúc thường thì của một thánh lễ theo nghi thức lúc bấy giờ :

Nghi thức đầu lễ[sửa|sửa mã nguồn]

Vị chủ tế ( linh mục ) tiến ra bàn thờ cúng đang khi đó ca đoàn hát ca Nhập lễ. Cộng đoàn đứng dậy. Chủ tế hôn kính Bàn thờ và hoàn toàn có thể tùy nghi xông hương, rồi quay mặt về phía cộng đoàn sau đó làm dấu Thánh Giá, tiếp theo chủ tế sẽ chúc bình an cho giáo dân ; sau đó nói đôi lời về ý nghĩa của Thánh lễ sắp cử hành để hướng cộng đoàn về Thánh Lễ .

Vị chủ tế mời gọi anh chị em cộng đồng Dân Chúa tự xét mình và xin hòa giải với Chúa và với anh chị em ( đọc kinh cáo mình hay còn gọi là Kinh Thú Nhận ). ( Đứng ). Sau đó hát Xin Chúa thương xót chúng con ( nếu trong phần Sám hối không có xướng đáp Xin Chúa thương xót chúng con ) .

Hát Kinh Vinh Danh[sửa|sửa mã nguồn]

Hát kinh Vinh Danh để tán tụng Ba Ngôi Thiên Chúa ( chỉ có ở Thánh Lễ Chúa Nhật, lễ buộc và những ngày lễ trọng, không gồm có những thánh lễ Chúa Nhật trong Mùa Vọng và Mùa Chay ). ( Đứng ). Nghi thức đầu lễ kết thúc bằng Lời nguyện Nhập Lễ, giáo dân thưa Amen .

Phụng vụ lời Chúa[sửa|sửa mã nguồn]

Giáo dân ngồi xuống nghe đọc những đoạn trích trong Kinh Thánh. Thông thường gồm 3 bài đọc :

  • Bài đọc 1: Trích từ Cựu ước (hoặc Sách Công vụ Tông đồ nếu trong Mùa Phục Sinh) do giáo dân đọc. Sau bài đọc 1 là Thánh Vịnh và Đáp ca, được đọc hoặc hát.
  • Bài đọc 2: Trích từ Tân ước (thông thường là những bài Thánh Thư). Sau đó cộng đoàn đứng lên hát bài hoan ca ngắn Alleluia (Tung hô Tin Mừng). Riêng Chúa Nhật Phục Sinh và Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thì ca đoàn tiếp tục hát ca Tiếp liên trước khi hát Alleluia.
  • Bài Phúc Âm: Đang khi hát Tung hô Tin Mừng thì vị chủ tế hoặc thầy phó tế tiến ra bục giảng, rồi chúc bình an cho cộng đoàn sau đó công bố Phúc Âm trích từ một trong 4 bài Tin mừng (của các Thánh Mathêu, Maccô, Gioan, Luca) nói về hoạt động và những lời giáo huấn của chính Chúa Giêsu.

Các bài đọc được sắp xếp theo lịch phụng vụ do Giáo hội công giáo ban hành. Như vậy mỗi ngày, tổng thể những nhà thời thánh công giáo đều đọc cùng một số ít đoạn trích như nhau. Lịch những bài đọc phụng vụ được lặp lại mỗi 3 năm ( năm A, năm B, năm C ). Theo quy ước của Giáo hội, năm nào mà số năm chia hết cho 3 thì sẽ là năm C, những thánh lễ Chúa Nhật trong năm đó sẽ đọc bài Tin Mừng theo thánh Luca. Nếu số năm chia cho 3 dư 1 thì sẽ là năm A, những thánh lễ Chúa Nhật trong năm đó sẽ đọc bài Tin Mừng theo thánh Mátthêu. Còn nếu số năm chia cho 3 dư 2 thì sẽ là năm B, những thánh lễ Chúa Nhật trong năm đó sẽ đọc bài Tin Mừng theo thánh Máccô, và một phần Tin Mừng theo thánh Gioan .Sau đó cộng đoàn ngồi xuống để nghe bài san sẻ ( bài giảng ) của vị chủ tế. Rồi tiếp đó là phần tuyên xưng đức tin ( nếu hôm đó là lễ Chúa Nhật hoặc lễ trọng ), sau đó là lời nguyện tín hữu .

Phụng vụ Thánh thể[sửa|sửa mã nguồn]

Phần dâng của lễ[sửa|sửa mã nguồn]

Hai lễ vật căn bản là bánh miến và rượu nho được mang ra (đang khi đó ca đoàn hát ca Tiến lễ). Giáo dân cũng có thể tiến dâng những lễ vật muốn chia sẻ cho anh em. Cộng đoàn ngồi, vị chủ tế chúc lành cho lễ vật. Sau đó mọi người đứng để hiệp ý với vị chủ tế đọc Lời nguyện Tiến Lễ, tiếp theo vị chủ tế chúc bình an cho cộng đoàn và kêu gọi cộng đoàn hướng tâm hồn lên Chúa.

Kinh Tiền Tụng[sửa|sửa mã nguồn]

Mọi người liên tục đứng, vị chủ tế đọc Kinh Tiền Tụng và kết thúc bằng cộng đoàn hát Kinh Thánh, Thánh, Thánh .

Kinh nguyện Thánh Thể[sửa|sửa mã nguồn]

Cộng đoàn quỳ, hoàn toàn có thể đứng nếu vì nguyên do ngăn trở. Vị Chủ Tế, được coi là hiện thân của Chúa Giêsu Kitô, rất là thận trọng và tôn kính đọc lại Lời Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly. Bánh Thánh hóa thành Thân Thể Chúa, rượu nho hóa thành Máu Chúa. Đây là khoảng thời gian ngắn thiêng liêng nhất của Thánh Lễ, vị chủ tế sẽ nâng cao Mình Thánh và Chén Thánh cho cộng đoàn thấy. Trong Kinh nguyện Thánh Thể, vị chủ tế sẽ cầu nguyện cho Hội Thánh, cho những tín hữu còn sống cũng như đã qua đời theo như những công thức được ghi trong Sách lễ Rôma. Kinh nguyện Thánh Thể kết thúc bằng Vinh Tụng Ca ( chủ tế nâng cao Dĩa Thánh đựng Mình Thánh và Chén Thánh ), cộng đoàn thưa Amen .

Mọi người đứng lên đọc kinh Lạy Cha ( bài kinh vắn duy nhất do chính Chúa Giêsu truyền dạy ). Sau đó chủ tế chúc bình an cho cộng đoàn rồi mọi người liên tục chúc bình an cho nhau ( ôm hôn, bắt tay, cúi chào tùy phong tục địa phương ), hát Kinh Chiên Thiên Chúa. Cuối cùng theo thứ tự tiến lên Bàn Thánh để rước Thánh Thể Chúa ( đang khi đó ca đoàn hát ca Hiệp lễ ). Sau khi rước lễ xong, vị chủ tế sẽ đọc lời nguyện Hiệp Lễ

Vị chủ tế chúc bình an cho cộng đoàn và ban phép lành cuối lễ, ca đoàn hát ca Kết lễ ( nếu ngay sau thánh lễ có nghi thức phụng vụ thì bỏ nghi thức giải tán ) .

  1. ^

    John Trigilio, Kenneth Brighenti (ngày 2 tháng 3 năm 2007). The Catholicism Answer Book. Sourcebooks, Inc. The term “Mass”, used for the weekly Sunday service in Catholic churches as well as services on Holy Days of Obligation, derives its meaning from the Latin term Missa.

  2. ^

    Seddon, Philip (1996). “Word and Sacrament”. Trong Bunting, Ian (biên tập). Celebrating the Anglican Way. London: Hodder & Stoughton. tr. 100.

  3. ^

    Joseph Augustus Seiss (1871). Ecclesia Lutherana: a brief survey of the Evangelical Lutheran Church. Lutheran Book Store. Melancthon, the author of the Augsburg Confession, states, that he uses the words Mass and theLord’s Supper as convertible terms: “The Mass, as they call it, or, with the Apostle Paul, to speak more accurately, the celebration of the Lord’s Supper,” &c. The Evangelical Princes, in their protest at the Diet of Spires, April 19th, 1529, say, “Our preachers and teachers have attacked and utterly confuted the popish Mass, with holy, invincible, sure Scripture, and in its place raised up again the precious, priceless SUPPER OF OUR DEAR LORD AND SAVIOUR JESUS CHRIST, which is called THE EVANGELICAL MASS. This is the only Mass founded in the Scriptures of God, in accordance with the plain and incontestable institution of the Saviour.

  4. ^ Lacy, Donald Charles (ngày 1 tháng 1 năm 1983). Methodist Mass (bằng tiếng Anh). Fairway Press. ISBN 089536977X.
  5. ^ Sterling, Jeff. “Methodist Mass at St. Paul’s United Methodist Church” (bằng tiếng Anh). The United Methodist Church. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2016. An Open Mass is a church service that features responsive readings from the liturgy, music, cantoring, a short homily, and the taking of Communion, or the Eucharist as it is sometimes called.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories