Phương pháp DẠY HỌC tích cực | Bản đầy đủ – Trung Tâm Gia Sư Trí Tuệ Việt

Related Articles

phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết và o phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

Một số phương pháp dạy học tích cực

  1. Mục tiêu:

    – Hiểu được bản chất của biện pháp dạy học tích cực.

    -Nắm được vai trò và nội dung căn bản của một số biện pháp dạy học tích cực.

    – thực hành được biện pháp dạy học hăng hái trong một số bài giảng.

    – tự tin tuyên bố sự cần thiết và Hữu ý thức tự giác, sáng tạo áp dụng PPDH tích cực
  2. .II. Nội dung:

    1. Biện pháp dạy học hăng hái là gì?

    a. Định hướng cách tân biện pháp dạy học:

    Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết nghị Trung ương 4 khóa VII ( 1 – 1993 ), quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII ( 12 – 1996 ), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục ( 12 – 1998 ), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 ( 4 – 1999 ).

    Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: ” biện pháp giáo dục phổ quát phải phát huy tính hăng hái, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; ăn nhập với đặc điểm của tầng lớp học, môn học; bồi bổ biện pháp tự học, đoàn luyện Năng lực áp dụng tri thức vào thực tiễn; tác động đến tính cách, đem lại niềm vui, hứng thú Học hỏi cho học sinh”.

    có khả năng nói cốt lõi của cách tân dạy và học là hướng tới hoạt động Học hỏi chủ động, chống lại thói quen Học hỏi thụ động.


    b. Thế nào là tính hăng hái học tập?

    Tính hăng hái ( TTC ) là một phẩm chất vốn có của con người, do để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, hăng hái cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo từng lớp. Bởi vậy, hình thành và phát triển TTC từng lớp là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.

    Tính hăng hái Học hỏi – về bản chất là TTC nhận thức, đặc điểm ở khát vọng thông hiểu, gắng gổ trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. TTC nhận thức trong hoạt động Học hỏi liên tưởng trước tiên với động cơ Học hỏi. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. hứng thú là tiền đề của tự giác. hứng thú và tự giác là hai nhân tố tạo nên tính hăng hái. Tính hăng hái sản sinh nếp tư duy độc lập. Nghĩ suy độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách Học hỏi hăng hái độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ Học hỏi. TTC Học hỏi thể hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của thầy giáo, tu bổ các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước Sự tình nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những Sự tình chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức Sự tình mới; tập kết để ý vào Sự tình đang học; bền chí hoàn tất các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn…

    TTC học tập biểu hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:

    – Bắt chước: gắng sức a dua mẫu Bắt đầu làm của thầy, của bạn…

    – Tìm tòi: Đứng riêng ra giải quyết Sự tình nêu ra, tìm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề…

    – Sáng tạo : tìm ra cách xử lý mới, độc lạ, hữu hiệu .

    c. phương pháp dạy học tích cực:

    phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

    “Tích cực” trong PPDH – tích cực được dùng với tức là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.

    PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

    Muốn thay đổi cách học phải thay đổi cách dạy. Cách dạy chỉ huy cách học, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tác động tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học viên yên cầu cách dạy tích cực hoạt động giải trí nhưng thầy giáo chưa phân phối được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không Thành tựu vì học viên chưa thích nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải kiên cường dùng cách dạy hoạt động giải trí để từ từ thiết kế xây dựng cho học viên phương pháp học tập dữ thế chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong thay đổi giải pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp ăn nhịp hoạt động giải trí dạy với hoạt động học thì mới Thành tựu. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “ Dạy và học tích cực ” để phân biệt với “ Dạy và học thụ động ” .

    d. Mối giao tiếp giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

    Từ thập kỉ lần cuối của thế kỷ XX, những tài liệu giáo dục ở ngoại bang và trong nước, 1 số ít văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc nhu yếu phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trọng tâm sang dạy học lấy học trò làm TT .Dạy học lấy học trò làm trọng tâm còn có 1 số ít thuật ngữ tương tự như : dạy Học hỏi trung vào người học, dạy học địa thế căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học … Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh vấn đề hoạt động học và vai trò của học trò trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống cuội nguồn lâu nay là nhấn mạnh vấn đề hoạt động giải trí dạy và vai trò của giáo viên .Lịch sử tăng trưởng giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tự do tương đối đồng đều thì giáo viên khó có thực trạng chăm sóc cho từng học trò nên đã hình thành kiểu dạy “ thông tin – hàng loạt ”. Giáo viên quan hoài trước nhất đến việc triển khai xong bổn phận của mình là truyền đạt cho hết nội dung pháp luật trong thời hạn và sách giáo khoa, gắng gổ làm cho mọi học trò hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này đẻ ra cách Học hỏi bị động, thiên về ghi nhớ, ít chịu nghĩ suy, thành ra đã giữ lại chất lượng, hiệu suất cao dạy và học, không phân phối ý kiến đề nghị tăng trưởng năng động của từng lớp đương đại. Để khắc phục thực trạng này, những nhà sư phạm lôi kéo phải phát huy tính nhiệt huyết dữ thế chủ động của học trò, thực hành thực tế “ dạy học phân hóa ” * quan hoài đến nhu yếu, năng lực của mỗi cá thể chủ nghĩa học trò trong tập thể lớp. Biện pháp dạy học nhiệt huyết, dạy học lấy học trò làm trọng tâm sinh ra từ toàn cảnh đó .

    Trên thực tiễn, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Phê chuẩn hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải hăng hái chủ động cải biến chính mình về tri thức, Năng lực, thái độ hoài nghi, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Bởi vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có biện pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.

    Như vậy, khi đã chú trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì dĩ nhiên phải phát huy tính hăng hái chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học trò làm trọng tâm không phải là một biện pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục đích, nội dung, biện pháp, công cụ, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến biện pháp dạy và học.

    2. Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực.

    a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.

    Trong phương pháp dạy học tích cực, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”, song song là chủ thể của hoạt động “học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của Chỗ ở thực tế, người học trực tiếp quan sát, bàn bạc, làm thí nghiệm, giải quyết Sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.

    Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn Bắt đầu làm. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết Bắt đầu làm và tích cực dự khán các Các quy định Bắt đầu làm của cộng đồng.

    b. Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học.

    phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một phương pháp nâng cao công hiệu dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.

    Trong tầng lớp hiện đại đang biến đổi nhanh – với sự Phát nổ thông báo, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão – thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.

    Trong các phương pháp học thì then chốt là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói thường, (Lập trường tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, Cuối cùng học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì thế, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt Sự tình phát triển tự học ngay trong trường phổ biến, không chỉ tự học ở hậu đường bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.

    c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.

    Trong một lớp học mà Thấp kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành Một xâu Công việc độc lập.

    áp dụng biện pháp tích cực ở Thấp càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông cáo trong nhà trường sẽ đáp ứng đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.

    Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi kiến thức, tài năng, thái độ hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân chủ nghĩa. Lớp học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy – trò, trò – trò, tạo nên mối quan hệ hiệp tác giữa các cá nhân chủ nghĩa trên con đường chiếm lĩnh nội dung Học hỏi. Phê duyệt đàm luận, tranh luận trong tập thể, quan điểm mỗi cá nhân chủ nghĩa được thổ lộ, tự tin tuyên bố hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.

    Trong nhà trường, phương pháp Học hỏi hiệp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ thông trong dạy học là hoạt động hiệp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học hỏi hiệp tác làm tăng hiệu quả Học hỏi, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay go, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu kết hợp giữa các cá nhân chủ nghĩa để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ chẳng thể có hiện tượng ỷ lại; tình cảm năng lực của mỗi thành viên được thổ lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần bạc nhược trợ giúp. Mô hình hiệp tác trong xã hội đưa vào đời sống trường học sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân việc hiệp tác trong cần lao xã hội.

    Trong nền kinh tế thị trường đã hiện ra nhu cầu hiệp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hiệp tác phải trở nên một mục đích giáo dục mà nhà trường phải để sẵn cho học sinh.

    d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.

    Trong dạy học, việc đánh giá học trò không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy.

    dĩ vãng giáo viên giữ độc quyền nhìn nhận học trò. Trong chiêu thức nhiệt huyết, giáo viên phải hướng dẫn học trò tăng trưởng năng lực tự nhìn nhận để tự sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này, giáo viên cần tạo thực trạng thuận tiện để học trò được tham gia nhìn nhận lẫn nhau. Tự nhìn nhận đúng và sắp xếp hoạt động giải trí kịp thời là năng lượng rất cần cho sự thành đạt trong đời sống mà nhà trường phải trang bị cho học viên .

    Theo hướng phát triển các phương pháp hăng hái để đào tạo những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá chẳng thể dừng lại ở request tái hiện các tri thức, lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất trí sáng ý, óc sáng tạo trong việc giải quyết những cảnh huống thực tế.

    Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên, song cho nhiều thông tin kịp thời hơn để mẫn tiệp sửa đổi hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.

    Từ dạy và học bị động sang dạy và học nhiệt huyết, giáo viên không còn đóng vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức, giáo viên trở nên người phong cách thiết kế, tổ chức triển khai, hướng dẫn những hoạt động giải trí độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực sở hữu nội dung Học hỏi, dữ thế chủ động đạt những mục tiêu tri thức, Năng lực, thái độ không tin theo đề xuất của thời hạn. Trên lớp, học trò hoạt động giải trí là chính, giáo viên có vẻ như nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải góp vốn đầu tư sức lực lao động, thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có năng lực thực hành thực tế bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, cổ vũ, cố vấn, trọng tài trong những hoạt động giải trí tìm tòi háo hức, tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ chuyên trị sâu rộng, có trình độ sư phạm tay nghề cao mới có năng lực tổ chức triển khai, hướng dẫn những hoạt động giải trí của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự kiến của giáo viên .

    có khả năng so sánh đặc điểm của dạy học cựu truyền và dạy học mới như sau:

Dạy học cựu truyềnCác mô hình dạy học mớiquan niệmHọc là qúa bẩm hấp thụ và lĩnh hội, qua đó hình thành kiến thức, Năng lực, tư tưởng, tình cảm.Học là qúa bẩm kiến tạo; học trò tìm tòi, khám phá, phát hiện, tập luyện, khai khẩn và xử lí thông tin, … tự hình thành thông hiểu, năng lực và phẩm chất. bản chấtTruyền thụ tri thức, truyền thụ và chứng minh chân lí của giáo viên. Tổ chức hoạt động nhận thức biếu học trò. Dạy học trò cách tìm ra chân lí.mục đíchchú trọng cung cấp tri thức, Năng lực, xảo thuật. Học để đối phó với thi cử. Sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến.chú trọng hình thành các năng lực ( sáng tạo, hiệp tác, … ) dạy biện pháp và văn chương cần lao khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay và tương lai. Những điều đã học cần thiết, hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát triển xã hội.Nội dungTừ sách giáo khoa + giáo viênTừ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, các tài liệu khoa học ăn nhập, thử nghiệm, bảng tàng, thực tế…: gắn với:– Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và nhu cầu của HS.– cảnh huống thực tiễn, bối cảnh và môi trường địa phương– Những vấn đề học trò quan tâm.biện phápCác biện pháp diễn giảng, truyền thụ tri thức một chiều.Các biện pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết vấn đề ; dạy học tương tác. Hình thức tổ chứcCố định: giới hạn trong 4 bức tường của lớp học, giáo viên đối diện với cả lớp.Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở phòng thử nghiệm, ở hiện trường, trong thực tế…, học cá nhân chủ nghĩa, học đôi bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với giáo viên.

  1. Một số biện pháp dạy học hăng hái cần phát triển ở trường Trung học phổ quát

    a. Biện pháp vấn đáp

    Vấn đáp ( đàm thoại ) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lãnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ vào thuộc tính hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:

    – Vấn đáp tái hiện: thầy giáo đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không thèm suy luận. Vấn đáp tái tạo không được xem là phương pháp quý báu sư phạm. Đó là phương pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.

    – Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục tiêu làm sáng tỏ một đề tài nào đó, thầy giáo lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những giá dụ minh hoạ để học sinh sáng sủa, dễ nhớ. phương pháp này đặc biệt có công hiệu khi có sự tương trợ của các phương tiện nghe – nhìn.

    – Vấn đáp tìm tòi ( Nói chuyện Ơxrixtic ): thầy giáo dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát xuất hiện thực chất của sự vật, tính quy luật của cảnh tượng đang tìm hiểu, kích thích sự thèm muốn am hiểu. Thầy giáo tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả bàn cãi – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một Sự tình xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, thầy giáo giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì thế, khi chấm dứt cuộc Nói chuyện, học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về Thấp tư duy.

    b. phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.

    Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những Sự tình nảy sinh trong thực tế là một năng lực đảm bảo sự Thành tựu trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì thế, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những Sự tình gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, Nhà ở và cộng đồng không chỉ cố ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.

    cấu trúc một bài học ( hoặc một phần bài học ) theo phương pháp đặt và giải quyết Sự tình thường như sau

    – Đặt Sự tình, xây dựng bài toán nhận thức

    o Tạo tình huống có vấn đề;

    o Phát hiện, nhận dạng Sự tình nảy sinh;

    o Phát hiện Sự tình cần giải quyết

    – Giải quyết Sự tình đặt ra

    o Đề xuất cách giải quyết;

    o lập mưu hoạch giải quyết;

    o thực hiện kế hoạch giải quyết.

    – Kết luận:

    o thảo luận Cuối cùng và đánh giá;

    o khẳng định hay bác giả thuyết nêu ra;

    o Phát biểu kết luận;

    o Đề xuất Sự tình mới.

    có thể phân biệt bốn mức Thấp đặt và giải quyết vấn đề:

    Mức 1: thầy giáo đặt Sự tình, nêu cách giải quyết Sự tình. Học sinh thực hiện cách giải quyết Sự tình theo hướng dẫn của thầy giáo. Thầy giáo đánh giá Cuối cùng làm việc của học sinh.

    Mức 2: thầy giáo nêu Sự tình, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết Sự tình. Học sinh thực hiện cách giải quyết Sự tình với sự giúp rập của thầy giáo khi cần. Thầy giáo và học sinh cùng đánh giá.

    Mức 3: thầy giáo cung cấp thông báo tạo tình huống có Sự tình. Học sinh phát hiện và xác định Sự tình nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và tuyển trạch giải pháp. Học sinh thực hành cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học trò cùng đánh giá.

    Mức 4 : học trò tự lực phát hiện vấn đề phát sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học trò giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.

Các mứcĐặt vấn đềNêu giả thuyếtlập kế hoạchGiải quyết vấn đềKết luận, đánh giá1GVGVGVHSGV2GVGVHSHSGV + HS3GV + HSHSHSHSGV + HS4HSHSHSHSGV + HSTrong dạy học theo chiêu thức đặt và xử lý yếu tố, học trò vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được giải pháp lĩnh hội tri thức đó, tăng trưởng tư duy nhiệt huyết, phát minh sáng tạo, được để sẵn một năng lượng thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và xử lý hài hòa và hợp lý những yếu tố phát sinh .c. Phương pháp hoạt động giải trí nhómLớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục tiêu, request của yếu tố Học hỏi, những nhóm được phân loại không hẹn mà có hay có chủ tâm, được duy trì yên ổn hay biến hóa trong từng phần của tiết học, được giao cùng một trách nhiệm hay những trách nhiệm khác nhau .Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải thao tác nhiệt huyết, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm trợ giúp nhau tìm hiêu yếu tố nêu ra trong không khí thi đua với những nhóm khác. Kết quả thao tác của mỗi nhóm sẽ góp phần vào hiệu quả Học hỏi chung của cả lớp. Để trình diễn. # hiệu quả thao tác của nhóm trước toàn lớp, nhóm có xác xuất cử ra một đại diện thay mặt hoặc phân việc mỗi thành viên trình diễn. # một phần nếu trách nhiệm giao cho nhóm là khá phức tạp .

phương pháp hoạt động nhóm có xác xuất tiến hành :

· Làm việc chung cả lớp :

– Nêu vấn đề, rõ ràng nhiệm vụ nhận thức

– Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ

– chỉ dẫn cách làm việc trong nhóm

· Làm việc theo nhóm

– phân việc trong nhóm

– cá nhân chủ nghĩa làm việc độc lập rồi thảo luận hoặc tổ chức luận bàn trong nhóm

– Cử đại diện hoặc phân việc trình diễn.# kết quả làm việc theo nhóm

· Tổng kết trước lóng

– Các nhóm tuần tự báo cáo kết quả

– luận bàn chung

– giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài

chiêu thức hoạt động giải trí nhóm giúp những thành viên trong nhóm san sớt những do dự, kinh nghiệm tay nghề của bản thân, cùng nhau thiết kế xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở nên quy trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ giáo viên .thành công xuất sắc của bài học kinh nghiệm nước phụ thuộc vào vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi thành viên, thế cho nên chiêu thức này còn làm gọi là giải pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, chiêu thức này bị ngăn lại trong một số lượng giới hạn nhất định bởi khoảng trống có khoanh vùng phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành thử giáo viên phải biết tổ chức triển khai hài hòa và hợp lý và học trò đã khá quen với chiêu thức này thì mới có hiệu quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động giải trí nhóm, tư duy nhiệt huyết của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của chiêu thức này là đoàn luyện năng lượng hiệp tác giữa những thành viên trong tổ chức triển khai lao động. Cần tránh khuynh hướng hình thưc và xơ cua lạm dụng, ý là tổ chức triển khai hoạt động giải trí nhóm là tín hiệu nổi bật nhất của canh tân PPDH và hoạt động giải trí nhóm càng nhiều thì chứng tỏ giải pháp dạy học càng thay đổi .

d. Phương pháp đóng vai

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự nào đó trong một cảnh huống giả định.

phương pháp đóng vai có những phần ưu tú sau :

– học trò được đoàn luyện thực hành những kỹ năng xử sự và giãi bày thái độ hoài nghi trong môi trường không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro trước khi thực hành trong thực tiễn.

– Gây hứng thú và chú ý cho học trò

– Tạo hoàn cảnh làm phát sinh óc sáng tạo của học trò

– khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi, hành vi của học trò theo chuẩn mực hành vi tư tưởng và chính trị – xã hội

– có xác xuất thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.

v Cách tiến hành có xác xuất như sau :

o giáo viên chia nhóm, Tình bạn huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai

o Các nhóm bàn bạc chuẩn bị đóng vai

o Các nhóm lên đóng vai

o thầy giáo phỏng vấn học sinh đóng vai

– vì sao em lại ứng xử như vậy ?

– cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách ứng xử ( đúng hoặc Không đúng )

o Lớp bàn bạc, nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp ? Chưa phù hợp ở điểm nào ? vì sao ?

o thầy giáo kết luận về cách ứng xử nhu yếu trong tình huống.

v Những điều cần lưu ý khi sử dụng :

o tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại

o Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai

o Người đóng vai phải Hiểu ra vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề

o Nên động viên cả những học sinh rút rát dự khán

o Nên cải dạng và đạo cụ đơn giản để tăng tính quyến rũ của trò chơi đóng vai

e. phương pháp động não

Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một Sự tình nào đó.

thực hiện phương pháp này, thầy giáo cần đưa ra một hệ thống các thông báo làm tiền đề cho buổi thảo luận.

V. Cách tiến hành

o thầy giáo nêu câu hỏi, Sự tình cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm

o động viên học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt

o thống kê tất thảy các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to, không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp

o Phân loại ý kiến

o Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và bàn bạc sâu từng ý.

4. Điều kiện vận dụng giải pháp dạy học tích cựca. Thầy giáo : thầy giáo phải được đào tạo và giảng dạy nghiêm mật để thích nghi với những thay đổi về tính năng, trách nhiệm rất Đa chủng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc thay đổi giáo dục. Thầy giáo vừa phải có kiến thức và kỹ năng trình độ sâu rộng, có Thấp sư phạm tay nghề cao, biết ứng sử tinh xảo, biết sử dụng những công nghệ tiên tiến tin vào dạy học, biết khuynh hướng tăng trưởng của học viên theo tiềm năng giáo dục nhưng cũng bảo vệ được sự tự do của học viên trong hoạt động giải trí nhận thức .b. Học sinh : Dưới sự chỉ huy của thầy giáo, học viên phải từ từ có được những phẩm chất và năng lượng thích nghi với chiêu thức dạy học tích cực như : giác ngộ tiềm năng học tập, tự giác trong học tập, cố ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm về Cuối cùng học tập của mình và Cuối cùng chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, tăng trưởng những mô hình tư duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế tài chính …c. Các lao lý và sách giáo khoa : Phải giảm bớt khối lượng kỹ năng và kiến thức nhồi nhét, tạo điều kiện kèm theo cho thầy trò tổ chức triển khai những hoạt động giải trí học tập tích cực ; giảm bớt những thông tin buộc học viên phải dấn và ghi nhớ máy móc, tăng cường những bài toán nhận thức để học viên tập giải ; giảm bớt những câu hỏi tái tạo, tăng cường loại câu hỏi tăng trưởng trí mưu trí ; giảm bớt những Kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để học viên tự Học hỏi tăng trưởng bài học kinh nghiệm .

d. Thiết bị dạy học

Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai Các quy định, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học trò thực hành các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.

Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học được thay đổi dễ dàng, mẫn tiệp, ăn nhập với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.

Trong qúa trình soạn thảo sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã chú ý lựa chọn danh mục thiết bị và Dự bị các thiết bị dạy học theo một số đề nghị để có khả năng phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Những đề nghị này rất cần được các cán bộ chỉ đạo quản lý quán triệt và khai triển trong khuôn khổ mình đảm trách. Cụ thể như sau:

– Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống giao thông, thực tiễn và đạt chất lượng cao, tạo hoàn cảnh đẩy mạnh hoạt động của học trò trên tài sở tự giác, tự khám phá tri thức phê chuẩn hoạt động thực hành, thâm nhập thực tiễn trong qúa trình học tập.

– Đảm bảo để nhà trường có khả năng đạt được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, đó là những thiết bị thực sự cần thiết chẳng thể thiếu được. Các nhà thiết kế và làm ra thiết bị dạy học sẽ quan hoài để có giá thành có lí với chất lượng đảm bảo.

– chú trọng thiết bị thực hành giúp học trò tự tiến hành các bài thực hành thử nghiệm. Những thiết bị đơn giản có khả năng được giáo viên, học trò tự làm góp phần làm sản vật phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Nghề nghiệp này rất cần được quan hoài và chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở.

– Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được sử dụng chung. Nhà trường cần lưu ý tới các chỉ dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của trường đề ra các quy định để thiết bị được giáo viên, học trò sử dụng tối đa.

Cần tính tới việc thiết kế đối với trường mới và Sửa sang đối với trường cũ phòng học bộ môn, phòng học đa năng và kho chứa thiết bị bên cạnh các phòng học bộ môn.

e. Cách tân đánh giá kết quả Học hỏi của học sinh.

Đánh giá là một khâu quan yếu chẳng thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn sau cuối của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở nên khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với đề nghị cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.

Đánh giá hiệu quả Học hỏi là qúa trình thu nhặt và xử lí thông tin về trình độ, năng lực thực hành thực tế mục tiêu Học hỏi của học trò về tác động ảnh hưởng và căn nguyên của tình hình đó nhằm mục đích tạo cơ sở cho những quyết định hành động sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học trò để học trò Học hỏi ngày càng tăng trưởng theo hướng đi lên hơn .

cách tân biện pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những đề nghị mới của mục đích nên việc kiểm tra, đánh giá phải biến chuyển mạnh theo hướng phát triển trí sáng dạ sáng tạo của học trò, xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất áp dụng mẫn tiệp các tri thức Năng lực đã học vào những cảnh huống thực tiễn, làm biểu lộ những xúc cảm, thái độ hoài nghi của học trò trước những vấn đề nóng hổi của hoàn cảnh sống cá nhân chủ nghĩa, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo Học hỏi bị động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.

hợp nhất với quan điểm cách tân đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục đích của từng bài, từng chương và mục đích giáo dục của môn học ở tầng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hành các mục đích được xác định.

– Hướng tới ý kiến đề nghị kiểm tra nhìn nhận công bình, khách quan tác dụng Học hỏi của học trò, bộ công cụ nhìn nhận sẽ được Sửa sang những hình thức nhìn nhận khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm ; chú ý quan tâm hơn tới đánh giá cả qúa trình lĩnh hội tri thức của học trò, quan hoài tới mức độ hoạt động giải trí nhiệt huyết, dữ thế chủ động của học trò trong từng tiết học, kể cả ở tiết hấp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thử nghiệm. Điều này yên cầu giáo viên bộ môn góp vốn đầu tư nhiều sức lực lao động hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan hoài và giám sát hoạt động giải trí này .

– hệ thống giao thông câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần biểu lộ sự phân hóa, đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn – mặt bằng về nội dung học thức dành cho mọi học trò THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành cho học trò có năng lực trí óc và thực hành cao hơn.

g. Bổn phận quản lý : Hiệu trưởng chịu bổn phận trực tiếp về việc cách tân biện pháp dạy học ở trường mình, đặt vấn đề này ở tầm quan yếu đúng mức trong sự kết hợp các hoạt động tất cả của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng, tỏ thái độ đồng tình, xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất mỗi sáng kiến, sửa đổi cho tiến bộ hơn dù nhỏ của giáo viên, đồng thời cũng cần biết chỉ dẫn, giúp đỡ giáo viên áp dụng các biện pháp dạy học hăng hái phù hợp với môn học, đặc điểm học trò, hoàn cảnh dạy và học ở địa phương, làm cho phong trào cách tân biện pháp dạy học càng ngày càng rộng rãi, luôn luôn và có công hiệu hơn.

Hãy cố gắng nỗ lực để trong mỗi tiết học ở trường phổ quát, học viên thắng hoạt động giải trí nhiều hơn, thực thi nhiều hơn, bàn luận nhiều hơn và quan trọng là được tâm lý nhiều hơn trên con đường sở hữu nội dung học tập .

5. Khai thác yếu tố tích cực trong các biện pháp dạy học truyền thống

Đối mới biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các biện pháp dạy học truyền thống, hay phải “nhập nội” một số biện pháp xa lạ vào qúa trình dạy học. Sự tình là ở chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của biện pháp dạy học hiện có, song song phải học hỏi, áp dụng một số biện pháp dạy học mới một cách mẫn tiệp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với tình cảnh điều kiện dạy và học cụ thể.

giải pháp thuyết trình là một trong những giải pháp dạy học truyền thống cuội nguồn được triển khai trong những mạng lưới hệ thống nhà trường đã từ lâu. Đặc điểm cơ bản nổi của giải pháp thuyết trình là thông cáo – tái tạo. Bởi thế, giải pháp thuyết trình còn có tên gọi là giải pháp thuyết trình thông cáo – tái tạo. Biện pháp này chỉ rõ thuộc tính thông cáo bằng lời của thầy và thuộc tính tái tạo khi lãnh hội của trò. Thầy giáo Học hỏi tài liệu, sách giáo khoa, Dự bị bài giảng và trực tiếp điều khiển và tinh chỉnh thông cáo luồng thông cáo kiến thức và kỹ năng đến học viên. Học sinh đảm nhiệm những thông cáo đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép và ghi nhớ .Như vậy, những kỹ năng và kiến thức đến với học viên theo giải pháp này Hầu như đã được thầy “ chuẩn bị sẵn sàng sẵn ” để trờ thu nạp, sự hoạt động giải trí của trò tương đối thụ động. Biện pháp thuyết trình chỉ được cho phép người học đạt đến Thấp tái tạo của sự lãnh hội kỹ năng và kiến thức mà thôi. Từ thời hạn này, theo hướng hoạt động giải trí hóa người học, cần phải giữ lại bớt giải pháp thuyết trình thông cáo – tái tạo, tăng cường giải pháp thuyết trình xử lý Sự tình. Đây là kiểu dạy học bằng cách đặt học viên trước những bài toán nhận thức, kích thích học viên hứng giải bài toán nhận thức, tạo ra sự chuyển hóa từ qúa trình nhận thức có tính Học hỏi khoa học vào tổ chức triển khai qúa trình nhận thức trong học tập. Thầy giáo đưa học viên vào trường hợp có Sự tình rồi học viên tự mình xử lý Sự tình đặt ra. Theo hình mẫu đặt và xử lý Sự tình mà thầy giáo bộc lộ, học viên được học thói thường tâm lý lôgic, biết cách phát hiện Sự tình, đề xuất kiến nghị giả thuyết, bàn luận, làm thí nghiệm để thẩm tra những giả thuyết nêu ra .Thuyết trình kiểu đặt và xử lý Sự tình thuần túy do thầy giáo biểu lộ cũng đã có công hiệu tăng trưởng tư duy của học viên. Nếu được xen kẽ phỏng vấn, bàn luận một cách hài hòa và hợp lý thì công hiệu sẽ Thêm lên. Muốn vậy, lớp không nên quá đông, có điều kiện kèm theo thuận tiện cho hội thoại, song song học viên phải có thói thường mạnh dạn biểu lộ tư kiến trước Sự tình nêu ra .Như vậy, để kích thích tư duy tích cực của học viên cần tăng cường mối tương quan ngược giữa học viên và thầy giáo, giữa người nghe và người thuyết trình. Thầy giáo có năng lực đặt một số ít câu hỏi “ có yếu tố ” để học viên đáp lại ngay tại lớp, hoặc có năng lực trao đổi ngắn trong nhóm từ 2 đến 4 người ngồi cạnh nhau trước khi thầy giáo đưa ra câu vấn đáp .Để hấp dẫn sự chú ý của người học và tích cực hóa giải pháp thuyết trình ngay khi khai mạc bài học kinh nghiệm thầy giáo có năng lực thông cáo Sự tình dưới hình thức những câu hỏi có thuộc tính khuynh hướng, hoặc có thuộc tính “ xuyên tâm ”. Trong qúa trình thuyết trình bài giảng, thầy giáo có năng lực triển khai một số ít hình thức thuyết trình hấp dẫn sự chú ý của học viên như sau :– bộc lộ kiểu nêu yếu tố : Trong qúa trình biểu lộ bài giảng thầy giáo có năng lực miêu tả Sự tình dưới dạng nghi vấn, gợi mở để gây trường hợp hấp dẫn sự chú ý của học viên .– Thuyết trình kiểu thuật chuyện : thầy giáo có năng lực phê chuẩn những sự kiện kinh tế tài chính – từng lớp, những câu truyện hoặc tác phẩm văn học, phim ảnh … làm tư liệu để phân tách, minh họa, đại quát và rút ra nhận xét, Kết luận nhằm mục đích kiến thiết xây dựng biểu trưng, khắc sâu nội dung kiến thức và kỹ năng của bài học kinh nghiệm .– Thuyết trình kiểu diễn đạt, nghiên cứu và phân tích : thầy giáo có năng lực dùng công thức, sơ đồ, biểu mẫu … để miêu tả phân tách nhằm mục đích chỉ ra những đặc thù, góc nhìn của từng nội dung. Trên cơ sở đó đưa ra những vật chứng lôgíc, nói hay để làm rõ thực ra của yếu tố .– Thuyết trình kiểu nêu Sự tình có tính giả thuyết : thầy giáo đưa vào bài học kinh nghiệm 1 số ít giả thuyết hoặc quan điểm có thuộc tính xích míc với Sự tình đang Học hỏi nhằm mục đích thiết kế xây dựng trường hợp có Sự tình thuộc loại giả thuyết ( hay luận chiến ). Kiểu nêu Sự tình này yên cầu học viên phải tuyển trạch quan điểm đúng, sai và có lập luận vững chắc về sự tuyển trạch của mình. Song song học viên phải biết cách phê phán, chưng một cách chuẩn xác, khách quan những quan điểm không đúng đắn, chỉ ra tính không khoa học và căn nguyên của nó .

– Thuyết trình kiểu so sánh, tổng hợp: Nếu nội dung của Sự tình thể hiện chứa đựng những mặt tương phản thì thầy giáo cần chính xác những Dấu hiệu để ghi nhận để so sánh từng mặt, thuộc tính hoặc giao tế giữa hai đối tượng đối đầu nhau nhằm rút ra kết luận cho từng Dấu hiệu để ghi nhận so sánh. Mặt khác, thầy giáo có khả năng sử dụng số liệu báo cáo để phân tách, so sánh rút ra kết luận nhằm góp phần làm tăng tính chuẩn xác và tính thuyết phục của vấn đề.

– hiện tại, bài giảng văn minh đang có khuynh hướng sử dụng ngày càng nhiều những phương tiện đi lại công nghệ tiên tiến thông cáo, làm tăng sức điệu đàng và hiệu suất cao. Ngày trước, để minh họa nội dung bài giảng, thầy giáo chỉ có năng lực sử dụng lời nói giàu hình tượng và quyến rũ kèm theo những cử chỉ, điệu bộ diễn đạt nội tâm hoặc có thêm bộ tranh giáo khoa tương hỗ. Hiện tại có cả một loạt phương tiện đi lại để thầy giáo tuyển trạch sử dụng như : máy chiếu, băng thu thanh, băng ghi hình, đĩa CD, ứng dụng máy vi tính … Tiến tới mọi thầy giáo phải có năng lực soạn bài giảng trên máy vi tính được nối mạng, biết sử dụng đầu máy đa năng để triển khai bài giảng của mình một cách sôi động, hiệu qủa, phát huy cao nhất tính tích cực học tập của học viên .

Tác giả bài viết: PGS.TS Vũ Hồng Tiến

Nguồn tin: trung tam gia su day kem TTV sưu tầm và chia sẽ

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories