Nhiễm Helicobacter pylori – Rối loạn tiêu hóa – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Related Articles

  • Kháng sinh ( những phác đồ khác nhau ) phối hợp với một chất ức chế bơm proton
  • Để đánh giá điều trị, sử dụng test thở ure, xét nghiệm kháng nguyên trong phân, hay nội soi đường tiêu hóa trên

Bệnh nhân có biến chứng (ví dụ như loét, ung thư) nên được điều trị diệt vi khuẩn. Diệt vi khuẩn H. pylori thậm chí có thể chữa được một số trường hợp u lympho thể MALT (nhưng không phải với các bệnh ung thư liên quan đến lây nhiễm khác). Điều trị nhiễm trùng không triệu chứng vẫn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên vẫn khuyến nghị điều trị do phát hiện vai trò của H. pylori trong ung thư. Vắc xin trong phòng ngừa và điều trị đang được phát triển (như là phần bổ trợ cho điều trị bệnh nhân bị nhiễm bệnh).

Việc điều trị H. pylori cần sử dụng nhiều loại thuốc, thông thường là kháng sinh cùng với các chất ức chế acid (1 Tài liệu tham khảo (Xem thêm Tổng quan về bài tiết axit và Tổng quan về viêm dạ dày.) Helicobacter pylori là một tác nhân phổ biến gây viêm dạ dày, loét dạ dày, ung thư biểu mô tuyến dạ dày và u lympho dạ dày… đọc thêm ). Thuốc ức chế bơm proton ức chế H. pylori, và gia tăng pH dạ dày có thể làm tăng nồng độ và hiệu quả của các kháng sinh, tạo ra một môi trường chống lại H. pylori.

Liệu pháp bộ ba là phác đồ thường được kê nhiều nhất cho nhiễm trùng H. pylori. Các loại thuốc sau đây được sử dụng trong 10 đến 14 ngày:

  • Một thuốc ức chế bơm proton ( lansoprazole 30 mg uống hai lần / ngày, omeprazole 20 mg uống hai lần / ngày, pantoprazole 40 mg uống hai lần / ngày, rabeprazole 20 mg uống hai lần / ngày, hoặc esomeprazole 40 mg uống một lần / ngày )
  • Amoxicillin ( liều 1 g hai lần / ngày ) hoặc Metronidazole 250 mg bốn lần / ngày
  • Clarithromycin ( 500 mg hai lần / ngày )

Tuy nhiên, ở nhiều vùng trên thế giới, tỷ lệ kháng clarithromycin đang tăng lên và do đó khả năng thất bại của liệu pháp bộ ba ngày càng cao. Do đó, phác đồ này không được khuyến cáo cho điều trị ban đầu, trừ khi ≥ 85% các chủng H. pylori được xác định là nhạy cảm hoặc phác đồ này vẫn có hiệu quả lâm sàng ở khu vực địa phương.

  • Một thuốc ức chế bơm proton ( lansoprazole 30 mg uống hai lần / ngày, omeprazole 20 mg uống hai lần / ngày, pantoprazole 40 mg uống hai lần / ngày, rabeprazole 20 mg uống hai lần / ngày, hoặc esomeprazole 40 mg uống một lần / ngày )
  • Bismuth subsalicylat ( 524 mg uống bốn lần / ngày )
  • Metronidazole 250 mg bốn lần / ngày
  • Tetracycline 500 mg bốn lần / ngày

Những bệnh nhân bị loét dạ dày hoặc tá tràng cần phải tiếp tục dùng thuốc kháng axit trong ít nhất 4 tuần. Diệt vi khuẩn có thể được xác nhận bằng nghiệm pháp thở urea, xét nghiệm kháng nguyên trong phân, hoặc nội soi đường tiêu hóa trên thực hiện ≥ 4 tuần sau khi hoàn thành điều trị. Đảm bảo diệt vi khuẩn nên tiến hành ở tất cả các bệnh nhân được điều trị nhưng là bắt buộc ở những bệnh nhân có biểu hiện nghiêm trọng của nhiễm H. pylori (ví dụ loét chảy máu). Loét chảy máu tái phát rất có thể xảy ra nếu nhiễm trùng không được loại bỏ.

Điều trị được lặp lại nếu H. pylori không được diệt. Nếu hai lần điều trị không thành công, một số tác giả khuyên dùng nội soi để lấy bệnh phẩm nuôi cấy nhằm kiểm tra độ nhạy.

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories