Luật quốc tịch Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Luật Quốc tịch Việt Nam là quy định pháp lý về Quốc tịch Việt Nam do Quốc hội Việt Nam thông qua. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam thể hiện quyền và nghĩa vụ của một người với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ngược lại.[1] Quốc tịch Việt Nam về cơ bản được trao cho một người (tự động hoặc qua thủ tục pháp lý) theo quan hệ huyết thống, tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Nhà nước Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (trừ một số ngoại lệ đặc biệt) nhưng cũng đồng thời không cấm công dân được mang thêm các quốc tịch khác nghĩa là công dân Việt Nam nhập quốc tịch nước ngoài thì không mất quốc tịch Việt Nam.

Quốc tịch Việt Nam chỉ được mặc định tồn tại nhưng chưa từng được công nhận và quy định trong lịch sử trung đại Việt Nam dù việc đăng ký hộ tịch đã có từ thời Trần. Việc quản lý hộ tịch được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc.[2] Dưới thời Pháp thuộc, người dân Việt Nam (được coi như) có quốc tịch Đông Dương thuộc Pháp (Fédération indochinoise). Quốc tịch Việt Nam chỉ thực sự tồn tại kể từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Sắc lệnh số 53 năm 1945 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ban hành là quy định chính thức đầu tiên về quốc tịch Việt Nam,[3] trong đó quy định:

“Những người thuộc một trong các hạng kể sau đây đều là công dân Việt Nam:

1. Cha là công dân Việt Nam;

2. Cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà mẹ là công dân Việt Nam;

3. Đẻ ở trên lĩnh thổ nước Việt Nam mà cha mẹ không rõ là ai hay không thuộc một quốc tịch nào.”

Sắc lệnh này ban hành ngày 20/10/1945 khi đất nước còn chưa bị chia cắt do vậy nó có giá trị pháp lý trên toàn lãnh thổ Việt Nam và là căn cứ pháp lý gốc duy nhất được các nước thừa nhận.[4] Tất cả các “quốc tịch” do các chế độ khác quy định sau thời điểm này đến nay đều không có giá trị pháp lý và được hiểu chung là Quốc tịch Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể chế thừa kế hợp pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được quốc tế công nhận nên có quyền và nghĩa vụ quy định và quản lý quốc tịch Việt Nam.

Quốc hội nước Nước Ta thống nhất đã lần đầu phát hành Luật Quốc tịch Nước Ta vào năm 1988. Từ đó đến nay đã có tổng thể những văn bản sau pháp luật về quốc tịch :

  • Luật Quốc tịch Việt Nam 1988[5]
  • Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 (Số: 07/1998/QH10)[6]
  • Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (Số: 24/2008/QH12)[7]
  • Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam (Số: 56/2014/QH13)[8]

Nguyên tắc một hay nhiều quốc tịch[sửa|sửa mã nguồn]

Một quốc tịch[sửa|sửa mã nguồn]

Ngay từ sắc lệnh 53 năm 1945 của Chính phủ Hồ Chí Minh đã có xu hướng quy định một quốc tịch. Pháp luật Việt Nam cũng được xây dựng theo hướng quy định một quốc tịch. Điều 3, Luật quốc tịch 1988 quy định:

Công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.

Do xu hướng mở cửa và kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp xây dựng quê hương, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng phương pháp linh hoạt trong quy định quốc tịch để có lợi cho kiều bào, nghĩa là không chính thức công nhận hai hay nhiều quốc tịch (song tịch, đa tịch) nhưng cũng không cấm công dân có thêm quốc tịch khác trong nhiều trường hợp. Sau 10 năm đưa vào sử dụng Luật quốc tịch, Điều 3 của Luật quốc tịch 1998 đã bỏ bớt từ chỉ, còn lại:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.

Luật quốc tịch 2008 đã quy định rõ ràng nhất:[7]

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

Nhiều quốc tịch[sửa|sửa mã nguồn]

Có hai nhóm trường hợp ngoại lệ được phép mang nhiều hơn một quốc tịch là :

  • Nhóm 1: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.
  • Nhóm 2: Những người nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam nhưng được cho phép giữ đồng thời quốc tịch cũ

Điều 19, Luật quốc tịch 2008 lao lý người nhập quốc tịch Nước Ta thì phải thôi quốc tịch quốc tế trừ những người sau :- Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Nước Ta ;- Có công lao đặc biệt quan trọng góp phần cho sự nghiệp kiến thiết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ;- Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .- Trong trường hợp đặc biệt quan trọng, nếu được quản trị nước được cho phépNăm năm nay, bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường bị mất tư cách đại biểu Quốc hội do Hội đồng bầu cử vương quốc đã không công nhận tư cách đại biểu Quốc hội khóa 14 của bà bởi một trong nhiều lí do là bà có quốc tịch thứ hai – quốc tịch Malta. Việc này vi phạm nguyên tắc một quốc tịch ( Điều 4 ) và bà cũng không thuộc trường hợp ngoại lệ nào trong hai nhóm kể trên. [ 9 ]

Đăng ký giữ quốc tịch[sửa|sửa mã nguồn]

Điều 13, Luật quốc tịch 2008 quy định rằng người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam trước ngày 1/7/2014. Tuy nhiên đến đầu năm 2014 chỉ khoảng 6.000 kiều bào đăng ký trên tổng số 4,5 triệu người Việt ở nước ngoài do quy định này không được phổ biến rộng rãi và bất hợp lý. Sau ngày 1/7/2014 hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài có thể bị mất quốc tịch nếu hộ chiếu đã hết hạn.[10] Do phản ứng của dư luận trong nước và nhiều cộng đồng người Việt ở nước ngoài, Quốc hội đã ban hành Luật mới vào tháng 6/2014 để bỏ quy định phải đăng ký giữ quốc tịch, sửa lại điều 13 của Luật quốc tịch 2008 thành:[8]

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.

Người Nước Ta định cư ở quốc tế chưa mất quốc tịch Nước Ta mà không có sách vở chứng tỏ quốc tịch Nước Ta theo lao lý tại Điều 11 của Luật này thì ĐK với cơ quan đại diện thay mặt Nước Ta ở quốc tế để được xác lập có quốc tịch Nước Ta và cấp Hộ chiếu Nước Ta .nhà nước lao lý chi tiết cụ thể khoản này .

Luật quốc tịch 2013 đã bổ trợ thêm rằng những người chưa mất quốc tịch nhưng lại không có sách vở gì để chứng tỏ quốc tịch thì vẫn được linh động cho xác lập có quốc tịch và cấp hộ chiếu. Quy định như vậy là rất thông thoáng, có lợi cho nhiều Việt kiều ra quốc tế đã lâu và không còn sách vở tùy thân nào của Nước Ta .

Giấy tờ chứng tỏ quốc tịch Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Căn cước công dân là một sách vở chứng tỏ quốc tịch Nước TaĐiều 11, Luật quốc tịch Nước Ta 2008 lao lý một trong những sách vở sau đây có giá trị chứng tỏ người có quốc tịch Nước Ta :

  • Giấy khai sinh; trường hợp Giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ;
  • Giấy chứng minh nhân dân
  • Căn cước công dân
  • Hộ chiếu Việt Nam;
  • Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

Căn cứ xác lập quốc tịch Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Người được xác lập có quốc tịch Nước Ta, nếu có một trong những địa thế căn cứ sau đây :

1. Do sinh ra

  • Có cả cha và mẹ đều là công dân Việt Nam
  • Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam
  • Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài và có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh. Trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ (một trong hai người là công dân Việt Nam) không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam.

2. Được nhập quốc tịch Nước Ta ;3. Được trở lại quốc tịch Nước Ta ;4. Theo pháp luật tại những điều 18, 35 và 37 của Luật này ;

  • Điều 18: Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam
  • Điều 35: Quốc tịch Việt Nam của con chưa thành niên được đi theo quốc tịch của cha mẹ nếu cha mẹ nhập hoặc trở lại quốc tịch Việt Nam.
  • Điều 37: Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam.

5. Theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên .

Nhập quốc tịch Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Đa số người mang quốc tịch Nước Ta là những người sinh ra và lớn lên tại Nước Ta, tuy nhiên cũng có 1 số ít ít những người lấy quốc tịch Việt Nam bằng cách nhập tịch. Điều 19 Luật quốc tịch 2008 pháp luật :

  • Công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:

1 ) Có năng lượng hành vi dân sự khá đầy đủ theo pháp luật của pháp lý Nước Ta ;2 ) Tuân thủ Hiến pháp và pháp lý Nước Ta ; tôn trọng truyền thống cuội nguồn, phong tục, tập quán của dân tộc bản địa Nước Ta ;3 ) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào hội đồng Nước Ta ;4 ) Đã thường trú ở Nước Ta từ 5 năm trở lên tính đến thời gian xin nhập quốc tịch Nước Ta ;5 ) Có năng lực bảo vệ đời sống tại Nước Ta .

  • 2. Các điều kiện 3, 4, 5 được miễn nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:

a ) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Nước Ta ;b ) Có công lao đặc biệt quan trọng góp phần cho sự nghiệp thiết kế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ;c ) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .

Nhập tịch do kết hôn và định cư[sửa|sửa mã nguồn]

Hiện nay có hai diện nhập tịch chính cho người nước ngoài là Nhập tịch thông qua kết hônNhập tịch sau khi định cư lâu dài tại Việt Nam.

Hầu hết những người quốc tế lấy vợ Nước Ta đều đủ tiêu chuẩn nhập quốc tịch Nước Ta và còn được ưu tiên không cần thôi quốc tịch quốc tế. Trên thực tiễn, nhiều cầu thủ bóng đá Việt Nam sinh ra ở quốc tế không nhập cư theo diện định cư vĩnh viễn mà trải qua con đường kết hôn. [ 11 ] Một số khác sau khi triển khai xong thời hạn thường trú 5 năm ở Nước Ta và từ bỏ quốc tịch quốc tế thì triển khai thủ tục nhập tịch. [ 12 ] Các cầu thủ đã nhập quốc tịch là những công dân Nước Ta nên phải được đối xử bình đẳng theo Hiến pháp và pháp lý. Vì vậy, báo chí truyền thông đã từng phản ánh việc Liên đoàn bóng đá Nước Ta hạn chế số lượng cầu thủ gốc ngoại tham gia tranh tài là không đúng. [ 13 ]

Nhập tịch do không có quốc tịch[sửa|sửa mã nguồn]

Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Nước Ta và cũng không có quốc tịch quốc tế. Ở Nước Ta lúc bấy giờ có hàng chục nghìn người không quốc tịch [ 14 ] thuộc những nhóm người sau :

  • Người di cư tự do từ Lào sang Việt Nam[15][16]
  • Người tị nạn từ Campuchia dưới thời Khmer Đỏ và Việt kiều Campuchia hồi hương[17][18]
  • Người thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài nhưng không nhập được nên trở thành không quốc tịch. Đó là những cô dâu Việt Nam bỏ quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch Đài Loan nhưng rồi ly hôn hoặc chồng chết nên không được cấp quốc tịch Đài Loan và trở thành người không quốc tịch.[19]

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muốn hạn chế tối đa thực trạng không quốc tịch nên đã tạo điều kiện kèm theo cho trẻ nhỏ sinh ra trên chủ quyền lãnh thổ Nước Ta đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Nước Ta được vào quốc tịch Nước Ta. [ 20 ] Người không có quốc tịch phải ” cư trú không thay đổi trên chủ quyền lãnh thổ Nước Ta từ 20 năm trở lên ” theo điều 22 Luật quốc tịch. Chính sách quốc tịch Nước Ta được nhìn nhận là tốt nhất trong khu vực dù vẫn còn rất nhiều khó khăn vất vả trong việc xác định quốc tịch. [ 21 ]

Nhập tịch theo diện đặc biệt quan trọng[sửa|sửa mã nguồn]

Diện cuối cùng và đặc biệt nhất là Nhập tịch do có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được Chủ tịch nước ký quyết định. Ông Hồ Cương Quyết (tên khai sinh: Menras André Marcel) là người đầu tiên được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kí quyết định trao quốc tịch theo diện này vào năm 2009. Sau đó có thêm một số trường hợp như ông Nguyễn Văn Lập (tên khai sinh: Kostas Sarantidis) được trao năm 2011[22].

Mất quốc tịch Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Điều 26 của Luật quốc tịch 2008 quy định những căn cứ để xác định một người đã mất quốc tịch Việt Nam:

  • Được thôi quốc tịch Việt Nam.
  • Bị tước quốc tịch Việt Nam.
  • Theo quy định tại khoản 2 Điều 18 và Điều 35 của Luật này.
    • Khoản 2 điều 18: Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai sẽ mất quốc tịch Việt Nam nếu tìm cả cha và mẹ hoặc chỉ tìm thấy cha hoặc chỉ tìm thấy mẹ mà họ chỉ có quốc tịch nước ngoài.
    • Khoản 2 điều 35: Khi chỉ cha hoặc mẹ thôi quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng với người đó cũng mất quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ.
  • Theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trong quá khứ, vào thời kỳ cuộc chiến tranh và trước Đổi mới, khi pháp lý về quốc tịch chưa triển khai xong thì có nhiều người Nước Ta bị mất quốc tịch theo cách này hay cách khác và trở thành những người không quốc tịch sống ở quốc tế .

Hiện nay, nếu một người không làm thủ tục xin thôi quốc tịch Nước Ta thì rất hiếm khi có trường hợp bị mất quốc tịch ( ví dụ : bị tước quốc tịch ), trừ khi phạm những tội tương quan đến bảo mật an ninh vương quốc. Năm 2017, ông Phạm Minh Hoàng, một người có hai quốc tịch Nước Ta và Pháp, đã bị tước quốc tịch Nước Ta do có hành vi xâm hại bảo mật an ninh vương quốc của Nước Ta và đã bị phán quyết vì hoạt động giải trí nhằm mục đích lật đổ chính quyền sở tại nhân dân [ 29 ]. Ngày 1/6/2017, Tổng lãnh sự quán Pháp tại TP Hồ Chí Minh thông tin cho ông, quản trị nước Trần Đại Quang đã ký văn bản tước quốc tịch so với ông vào hôm 17/5 [ 30 ] .

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories