Hysteria – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Hysteria, tiếng Việt còn gọi là chứng ictêri hay chứng cuồng loạn là một trạng thái của tâm thức, biểu hiện là sự kích động thái quá, không thể điều khiển được các cảm xúc. Những người bị “hysteria” thường mất tự chủ do một nỗi sợ hãi gây ra bởi nhiều sự kiện trong quá khứ có liên quan đến một số mâu thuẫn nghiêm trọng, bệnh thường xuất hiện sau một chấn thương tâm lý ở những người nhân cách yếu. Trong bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD-10), Hysteria được gọi là rối loạn phân ly. Tỷ lệ gặp ở 0,3-0,5% dân số, thường gặp ở nữ giới. Biểu hiện bệnh rất đa dạng: Những dấu hiệu dạng cơ thể như mệt mỏi hụt hơi, khó thở, đau nhức… nhưng không có bằng chứng xác đáng về bệnh cơ thể; Những biểu hiện về tâm thần kinh như khóc cười, sợ hãi vô cớ, la hét, mất hoặc tăng cảm giác…, ý thức chỉ bị ảnh hưởng. Đặc điểm quan trọng là bệnh nhân rất dễ tự ám thị và bị ám thị ly kỳ hóa hiện tượng, kịch tính hóa, thích được mọi người chú ý. Nói chung, các chuyên gia y tế hiện đại đã không còn coi hysteria như là một triệu chứng để chẩn đoán, mà xem như là một chứng bệnh được xác định chính xác.

Xuất hiện những cơn co giật, co cứng sau một chấn thương tâm ý. Bệnh nhân giãy dụa hô hào, đập giường … nhưng ý thức vẫn tỉnh táo và vẫn nhận ra được xung quanh, thích được mọi người chú ý quan tâm. Cơn rối loạn xúc cảm : kêu khóc, xúc cảm hỗn độn, nói không chuẩn ( không ăn nhập với chủ đề xung quanh ), gào thét không rõ nguyên do, ý thức không bị rối loạn, hiếm gặp ý thức thu hẹp nhẹ. Trong một số ít trường hợp, bệnh nhân có ảo giác ( thường là ảo thị – bệnh nhân nhìn thấy những hiện tượng kỳ lạ không có từ bên ngoài … ). Bệnh nhân rất dễ bị ám thị và tự ám thị ( nhận thức không đúng về sự vật hiện tượng kỳ lạ xảy ra ). Có thể gặp rối loạn hoạt động như run, co giật, liệt công dụng. Rối loạn cảm xúc, mất hoặc tăng cảm ( kích thích nhỏ, bệnh nhân cảm nhận lớn hơn thông thường ). Cảm giác đau và sơ đồ cảm xúc da của khung hình ; Cảm giác nội tạng cũng bị rối loạn như đau bụng, đau ngực, đau vùng tim …

Nguyên nhân thường là do những chấn thương tâm ý, lúng túng cao độ, tức giận bi quan, bệnh khung hình mà theo người bệnh hiểu là hiểm nghèo. Yếu tố thuận tiện là những người có nhân cách yếu, kém ý chí, thần kinh dạng nghệ sĩ, nhiễm độc, nhiễm trùng, bệnh tim mạch …

Điều trị bệnh này bằng biện pháp tâm lý, thôi miên, tạo quan hệ tốt giữa bác sĩ và bệnh nhân, cơn bệnh sẽ qua đi trong thời gian ngắn. Trong một số trường hợp khó khăn hơn, cần sử dụng ngay benzodiazepin, sau đó dùng thuốc chống trầm cảm liều thấp ví dụ như elavil, hoặc các thuốc mới như prozac, remeron, sertralin.

Nguồn gốc của thuật ngữ Hysteria bị quy cho Hippocrates, mặc dầu thuật ngữ này không được sử dụng trong những sách của Hippocrates. [ 1 ] Trong những ghi chép của mình, Hippocrates có đề cập đến một loạt những triệu chứng bệnh, ví dụ điển hình như không thở được và bệnh Heracles là hội chứng chuyển động tử cung của người phụ nữ đến những khu vực khác nhau trong khung hình của mình, tử cung có màu sáng và khô do thiếu những chất dịch của khung hình. [ 1 ] Trong sách đó có một đoạn văn mà ông đề xuất nên mang thai để chữa những triệu chứng như vậy, vì giao hợp sẽ ” làm ẩm ” tử cung và tạo điều kiện kèm theo lưu thông máu trong khung hình. [ 1 ]Trong quốc tế phương Tây, cho đến thế kỷ 18, hysteria trong y khoa được xem là bệnh của phụ nữ, gây ra bởi những rối loạn của tử cung ( từ ὑστέρα tiếng Hy Lạp ” hystera ” = tử cung ). [ 2 ] Đến giữa thế kỷ 19, hysteria được xem như thể những rối loạn tính năng tình dục. Phương pháp điều trị nổi bật là xoa bóp bộ phận sinh dục của bệnh nhân, hay dùng máy rung hoặc phun nước để gây cực khoái. [ 2 ]

Sau này, Jean-Martin Charcot, một nhà thần kinh học Pháp đã nhìn nhận Hysteria như là một chứng rối loạn tâm lý. Năm 1893 Sigmund Freud dựa trên những khám phá của Charcot đã định nghĩa hysteria là 1 dạng “phân ly của ý thức”.[3] Charcot đã xây dựng lý thuyết về cơ chế hysteria thông qua nghiên cứu về “bệnh thần kinh” đối với các bệnh nhân ngoại trú vào năm 1887 và 1888. Sau đó, ông tiếp tục các nghiên cứu đầy đủ của mình về hysteria tại Salpetriere ở Pháp, nơi đây ông đã tuyên bố nguyên nhân của chứng hysteria là do “yếu tố di truyền”. Charcot đã sử dụng phương pháp thôi miên để điều trị.[4]

Trong những năm đầu 1890, Freud xuất bản một loạt những bài viết về hysteria để thông dụng những phát kiến trước đó của Charcot và mở màn những quan điểm tăng trưởng của mình về hysteria. Đến năm 1920 Lý thuyết của Freud đã có tác động ảnh hưởng ở Anh và Mỹ .

Các kim chỉ nan và giải pháp tân tiến[sửa|sửa mã nguồn]

Hiện nay thuật ngữ tâm thần chia ra làm hai loại rối loạn mà trước đây gọi chung là hysteria: somatoform and dissociative. Các rối loạn dissociative trong DSM-IV-TR bao gồm mất trí nhớ, rối loạn sắc, rối loạn mất nhân cách… Rối loạn somatoform bao gồm các rối loạn chuyển đổi, rối loạn cơn đau mãn tính… Trong rối loạn somatoform, bệnh nhân bị các triệu chứng như đau lưng thấp hoặc liệt chân tay mà không có nguyên nhân vật lý rõ ràng.[5]

Tất cả những rối loạn này được cho là vô thức, không phải vờ vịt hoặc cố ý vờ vịt. [ 6 ]Các nhà tâm lý học theo thuyết của Freud cho rằng những triệu chứng hyesteria là những nỗ lực của tiềm thức để bảo vệ những bệnh nhân từ sự stress tâm linh. Động cơ tiềm thức gồm có từ sơ cấp như thể những triệu chứng trực tiếp làm giảm stress ( như khi một bệnh nhân ho để giải phóng nguồn năng lượng bị dồn nén từ việc giữ bí hiểm ), cho đến những triệu chứng thứ cấp là những triệu chứng cung ứng một lợi thế độc lập cho bệnh nhân, ví dụ điển hình ghét việc làm mình đang làm ra ở nhà .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories