HIV – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Bài này viết về virus. Đối với bệnh do virus này gây ra, xem HIV / AIDSHIVHIV-budding-Color.jpgHình ảnh HIV-1 ( xanh lục ) quét từ kính hiển vi điện tử .Phân loại virusNhóm: Nhóm VI (ssRNA-RT)Họ (familia)RetrovirusChi (genus)LentivirusLoài

  • HIV 1
  • HIV 2

HIV (tiếng Anh: human immunodeficiency virus, có nghĩa virus suy giảm miễn dịch ở người) là một lentivirus (thuộc họ retrovirus) có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS),[1][2] một tình trạng làm hệ miễn dịch của con người bị suy giảm cấp tiến, tạo điều kiện cho những nhiễm trùng cơ hội và ung thư phát triển mạnh làm đe dọa đến mạng sống của người bị nhiễm.

HIV lây nhiễm vào các tế bào quan trọng trong hệ thống miễn dịch của con người như lympho bào T có tính bổ trợ (cụ thể là những tế bào T – CD4+), đại thực bào và tế bào tua.[3] Nhiễm HIV làm giảm mạnh số lượng tế bào CD4+ thông qua 3 cơ chế chính: đầu tiên, virus trực tiếp giết chết các tế bào mà chúng nhiễm vào, sau đó làm tăng tỷ lệ chết rụng tế bào ở những tế bào bị nhiễm bệnh, bước 3 là các lympho bào T độc (CD8) giết chết những lympho bào T – CD4+ bị nhiễm bệnh. Khi số lượng các tế bào CD4+ giảm xuống dưới một mức giới hạn nào đó, sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và cơ thể dần dần yếu đi tạo điều kiện cho các nhiễm trùng cơ hội.

So sánh giữa các loài HIV

Loài

Độc lực

Khả năng lây truyền

Mức độ lây lan

Nguồn gốc (suy đoán)

HIV-1

Cao

Cao

Toàn cầu

Tinh tinh thông thường

HIV-2

Thấp hơn

Thấp

Tây Phi

khỉ Sooty Mangabey

HIV là virus thuộc chi Lentivirus,[4] họ Retrovirus.[5] Các Lentivirus có nhiều đặc tính hình thái và đặc tính sinh học giống nhau. Lentivirus có thể truyền bệnh cho nhiều loài, với đặc trưng là thời gian nhiễm và ủ bệnh rất dài.[6]

Dòng di truyền của nó là dòng di truyền ngược chiều từ RNA sang DNA chứ không phải thuận chiều DNA sang RNA. Lentivirus truyền đi dưới dạng virus mang RNA chuỗi đơn dương ( single-stranded, positive-sense ) có màng bao bên ngoài. Khi xâm nhập vào tế bào đích, bộ gen trong RNA của virus được quy đổi ( phiên mã ngược ) thành DNA mạch kép bởi enzym phiên mã ngược đã được luân chuyển cùng với bộ gen của virus trong những hạt virus. DNA của virus được tạo ra sau đó được đưa vào nhân tế bào và tích hợp vào DNA của tế bào nhờ enzym integrase của virus và những cofactor của tế bào chủ. [ 7 ] Sau khi tích hợp, virus trở thành tiềm ẩn, được cho phép virus và tế bào chủ của nó hoàn toàn có thể tránh bị mạng lưới hệ thống miễn dịch phát hiện. Ngoài ra, virus này hoàn toàn có thể được sao chép, sản sinh bộ gen RNA và protein của virus, sau đó đóng gói và phát tán từ tế bào dưới dạng những hạt virus mới và khởi đầu vòng tái tạo liên tục .Hai loại HIV đã được định rõ đặc thù : HIV-1 và HIV-2. HIV-1 là loại virus bắt đầu được phát hiện và đặt tên là LAV và HTLV-III. HIV-1 độc hơn HIV-2, [ 8 ] và là nguyên do của phần nhiều những ca nhiễm HIV trên toàn thế giới. HIV-2 có năng lực lây nhiễm thấp hơn HIV-1 vì vậy nó chỉ hạn chế ở Tây Phi. [ 9 ]

Cấu trúc và bộ gen[sửa|sửa mã nguồn]

HIV có cấu trúc không giống với những retrovirus khác. Nó có hình cầu [ 10 ] với đường kính khoảng chừng 120 nm, nhỏ hơn khoảng chừng 60 lần so với một tế bào hồng cầu, nhưng so với những virus khác thì nó khá lớn. [ 11 ] HIV chứa hai bản sao của RNA chuỗi đơn dương mã hóa 9 gen của virus được phủ bọc bởi 1 lớp vỏ ( capsid ) hình nón gồm có 2 nghìn bản sao của những protein p24. [ 12 ] Các RNA sợi đơn được kết nối với những protein nucleocapsid p7 ( phức tạp gồm có acid nucleic và vỏ capsid ) và những enzyme thiết yếu cho sự tăng trưởng của virus như enzyme phiên mã ngược, enzyme protease, ribonuclease và integrase. Chất gian bào gồm những protein p17 của virus bao quanh lớp vỏ capsid để bảo vệ những hạt virus ( virion ). [ 12 ]

Tham khảo

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories