Digitalis – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

O ([1] hoặc [2]) là một chi chứa khoảng 20-30 loài của cây thân thảo lâu năm, cây bụi và cây hai năm, trong tiếng Việt thường được gọi đối với 2 loài du nhập (D. lanataD. purpurea) là dương địa hoàng, mao địa hoàng hay lồng đèn.

Theo truyền thống cuội nguồn, chi này được đặt trong họ Scrophulariaceae, nhưng những điều tra và nghiên cứu phát sinh chủng loài học gần đây đã đặt nó trong họ Plantaginaceae được lan rộng ra ra rất nhiều. [ 3 ] Chi này có nguồn gốc ở miền tây và tây nam châu Âu, [ 4 ] miền tây và trung châu Á và tây-bắc châu Phi. Những bông hoa mọc thành cụm cao, hình ống và sắc tố khác nhau tùy theo loài, từ màu tím đến hồng, trắng vàng. Tên khoa học có nghĩa là ” giống như ngón tay ” và nói đến sự thuận tiện mà hoa hoàn toàn có thể gắn khít vào đầu ngón tay của con người .

Loài được biết đến nhiều nhất là dương địa hoàng hay lồng đèn tía (Digitalis purpurea). Loài cây hai năm này thường được trồng làm cây cảnh do màu sắc hoa rực rỡ của nó, có màu từ các tông màu tím khác nhau qua màu hồng đến trắng thuần khiết. Những bông hoa này cũng có thể có các đốm và vết màu khác nhau. Các loài phù hợp với làm vườn khác bao gồm D. ferruginea, D. grandiflora, D. luteaD. parviflora.[5]

Thuật ngữ digitalis cũng được sử dụng cho các chế phẩm thuốc có chứa glicozit tim mạch, đặc biệt là một loại gọi là digoxin, được chiết từ nhiều loài cây thuộc chi này. Dương địa hoàng có công dụng chữa bệnh nhưng cũng có thể gây độc cho người và các loài động vật khác.

Tên gọi “foxglove” được ghi lại lần đầu tiên vào năm 1542 bởi Leonhard Fuchs (1501-1566), bác sĩ kiêm nhà thực vật học người Đức, người mang họ Fuchs, là từ tiếng Đức có nghĩa là “con cáo” (chi thực vật Fuchsia cũng được đặt theo họ của ông). Chi digitalis là từ Latinh digitus (ngón tay), có lẽ để nói đến hình dạng của những bông hoa, chứa khít ngón tay khi hình thành đầy đủ.[6]

Vì thế, tên gọi này được ghi lại trong tiếng Anh cổ là foxes glofe/glofa hoặc fox’s glove.[7] Theo thời gian, các truyền thuyết dân gian làm lu mờ nguồn gốc theo nghĩa đen của tên gọi, ám chỉ rằng những con cáo đeo những bông hoa trên bàn chân của chúng để làm cho chuyển động của chúng nhẹ nhàng khi chúng lén lút săn lùng con mồi. Những sườn đồi rừng nơi những con cáo làm tổ thường được che phủ bởi những bông hoa độc hại này. Một số tên gọi đáng sợ hơn, như “witch’s glove” (găng tay phù thủy), là nói đến độc tính của các loài cây này.[8]

Henry Fox Talbot (1847) đề xuất tên gọi folks’ glove, trong đó folk có nghĩa là thần tiên.[7] Tương tự, R. C. A. Prior (1863) đã đề xuất một từ nguyên là foxes-glew, có nghĩa là ‘âm nhạc thần tiên’.[7] Tuy nhiên, cả hai gợi ý này đều không giải thích được dạng tiếng Anh cổ foxes glofa.[9]

Tên gọi dương địa hoàng hay mao địa hoàng trong tiếng Việt là do sự tương tự bề ngoài với các loài địa hoàng (sinh địa, thục địa) thuộc chi Rehmannia.

Môi trường sống[sửa|sửa mã nguồn]

Các loài Digitalis phát triển tốt trên đất chua, dưới ánh nắng một phần đến nhiều bóng râm, trong một loạt các môi trường sống, bao gồm rừng thưa, các khoảng phát quang trong đồng rừng, rìa truông và đồng hoang thạch nam, vách đá, sườn núi đá và các bờ rào.[4][10] Nó thường được tìm thấy tại những nơi mà mặt đất bị xáo trộn, chẳng hạn như vùng rừng thưa bị đốn hạ sạch sẽ gần đây hoặc nơi có thảm thực vật đã bị cháy.[11]

Ấu trùng của Eupithecia pulchellata, một loại sâu bướm, ăn hoa của dương địa hoàng như một loại thức ăn. Các loài khác cánh vẩy khác ăn lá cây, bao gồm cả Noctua comes.

Các tài liệu chưa có sự thống nhất về số lượng loài. Danh sách dưới đây lấy theo Plants of the World Online và The Plant List. [ 12 ] [ 13 ]

Sử dụng y học[sửa|sửa mã nguồn]

Một nhóm các loại thuốc được chiết từ cây dương địa hoàng được gọi là digitalin. Việc sử dụng chất chiết từ D. purpurea có chứa glicozit tim mạch để điều trị các bệnh tim mạch được William Withering mô tả lần đầu tiên trong văn liệu y khoa tiếng Anh vào năm 1785,[14][15][16] được coi là sự khởi đầu của phương pháp trị liệu hiện đại.[17][18] Nó được sử dụng để tăng khả năng co bóp của tim (nó là một tác nhân biến lực tính dương) và như một loại thuốc chống loạn nhịp tim để kiểm soát nhịp tim, đặc biệt là trong tình trạng rung tâm nhĩ không đều (và thường là nhanh). Do đó, Digitalis thường được kê đơn cho các bệnh nhân rung nhĩ, đặc biệt nếu họ được chẩn đoán mắc suy tim sung huyết. Digoxin đã được phê duyệt cho bệnh suy tim vào năm 1998 theo các quy định hiện hành của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) trên cơ sở nghiên cứu ngẫu nhiên và thử nghiệm lâm sàng. Nó cũng đã được phê duyệt để kiểm soát tốc độ đáp ứng của tâm thất cho bệnh nhân rung nhĩ. Hướng dẫn của Hội Tim học Hoa Kỳ (ACC)/Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) khuyên dùng digoxin trong điều trị suy tim mạn tính có triệu chứng cho bệnh nhân bị suy giảm chức năng tâm thu, bảo toàn chức năng tâm thu và/hoặc kiểm soát tốc độ rung nhĩ bằng phản ứng tâm thất nhanh. Hướng dẫn của Hiệp hội Suy tim Hoa Kỳ đối với bệnh suy tim đưa ra các khuyến cáo tương tự. Mặc dù sự chấp thuận của FDA và các khuyến cáo hướng dẫn là tương đối gần đây, nhưng việc sử dụng digoxin trong điều trị đang giảm dần với những bệnh nhân suy tim, có khả năng là do kết quả của một vài yếu tố. Những lo ngại về an toàn liên quan đến mối liên hệ được đề xuất giữa liệu pháp digoxin và tỷ lệ tử vong tăng lên ở phụ nữ có thể góp phần vào giảm sử dụng digoxin trong điều trị.

Digitalis purpurea – hoa tím nhạt

– hoa tím nhạt

Một nhóm những hợp chất có hoạt tính dược lý được chiết xuất đa phần từ lá của cây năm thứ hai và ở dạng tinh khiết được gọi bằng những tên hóa học phổ cập, như digitoxin hay digoxin, hoặc bằng những tên thương hiệu tương ứng là Crystodigin và Lanoxin. Hai loại thuốc khác nhau ở chỗ digoxin có nhóm hydroxyl bổ trợ ở vị trí C-3 trên vòng B ( liền kề với pentan ). Cả hai phân tử gồm có một lacton và một đường lặp lại ba lần được gọi là glicozit .

Cơ chế hoạt động giải trí[sửa|sửa mã nguồn]

Digitalis hoạt động giải trí bằng cách ức chế natri-kali ATPase. Điều này dẫn đến sự ngày càng tăng nồng độ những ion natri nội bào và do đó làm giảm gradient nồng độ ngang qua màng tế bào. Sự ngày càng tăng natri nội bào này làm cho bộ trao đổi Na / Ca ( NCX ) đảo ngược điện thế, nghĩa là chuyển từ bơm natri vào tế bào để đổi lấy việc bơm calci ra khỏi tế bào thành việc bơm natri ra khỏi tế bào để đổi lấy việc bơm calci vào tế bào. Điều này dẫn đến sự ngày càng tăng nồng độ calci tế bào chất, giúp cải tổ năng lực co bóp của tim. Trong điều kiện kèm theo sinh lý thông thường, calci tế bào chất được sử dụng trong những co bóp tim bắt nguồn từ lưới cơ tương, một cơ quan tử nội bào chuyên tàng trữ calci. Trẻ sơ sinh, một số ít động vật hoang dã và bệnh nhân bị suy tim mạn tính thiếu lưới cơ tương tăng trưởng và hoạt động giải trí vừa đủ và phải dựa vào bộ trao đổi Na / Ca để phân phối tổng thể hoặc phần đông calci tế bào chất thiết yếu cho sự co bóp của tim. Để điều này xảy ra, natri tế bào chất phải vượt quá nồng độ nổi bật của nó để tạo ra sự đảo ngược về điện thế, điều xảy ra tự nhiên ở trẻ sơ sinh và 1 số ít động vật hoang dã đa phần trải qua nhịp tim tăng cao ; ở những bệnh nhân bị suy tim mạn tính, nó xảy ra trải qua việc điều trị bằng digitalis. Do năng lực co bóp tăng lên, thể tích tim bóp tăng lên. Cuối cùng, digitalis làm tăng cung lượng tim ( Cung lượng tim = Thể tích tim bóp x Nhịp tim ). Đây là chính sách làm cho loại thuốc này trở thành chiêu thức điều trị phổ cập cho bệnh suy tim sung huyết, với đặc trưng là cung lượng tim thấp. Digitalis cũng có công dụng phế vị ( mê tẩu ) so với hệ thần kinh đối giao cảm, và như vậy được sử dụng trong điều trị rối loạn nhịp tim tái phát và làm chậm vận tốc tâm thất trong rung nhĩ. Sự nhờ vào vào hiệu ứng phế vị có nghĩa là digitalis không hiệu suất cao khi bệnh nhân có hệ thần kinh giao cảm cao, đó là trường hợp với những người bị bệnh nặng và khi tập thể dục .

Độc tính của Digitalis ( còn được gọi là ngộ độc digitalis ) là tác dụng của việc sử dụng quá liều digitalis và gây ra buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy, cũng như nhiều lúc dẫn đến chứng sắc vàng ( bị vàng da hoặc thị giác màu vàng ) và sự Open của những đường viền mờ ( quầng ), chảy nước dãi, nhịp tim không bình thường, rối loạn nhịp tim, yếu ớt, suy sụp, đồng tử giãn, run, co giật và thậm chí tử vong. Nhịp tim chậm cũng hoàn toàn có thể xảy ra. Do một tính năng phụ liên tục của digitalis là làm giảm thèm ăn, 1 số ít cá thể đã sử dụng thuốc này như một chất tương hỗ giảm cân .Digitalis là một ví dụ về loại thuốc có nguồn gốc từ một loại thực vật trước kia được sử dụng trong dân gian và thảo dược ; những nhà thảo dược phần nhiều đã từ bỏ việc sử dụng vì chỉ số trị liệu hẹp của nó và khó khăn vất vả trong việc xác định lượng thuốc hoạt hóa trong những chế phẩm thảo dược. Một khi tính có ích của digitalis trong việc kiểm soát và điều chỉnh mạch của con người, nó từng được sử dụng cho nhiều mục tiêu khác nhau, gồm có điều trị động kinh và những rối loạn tai biến động kinh khác, nhưng lúc bấy giờ được coi là giải pháp điều trị không tương thích .Tùy thuộc vào loài, dương địa hoàng hoàn toàn có thể chứa một vài glicozit tim mạch và steroid có tương quan về mặt hóa học và gây tử trận về mặt sinh lý. Do đó, những loài dương địa hoàng đã từng có một số ít tên gọi gian ác hơn trong tiếng Anh như : dead man’s bells ( chuông của người chết ) và withch’s gloves ( găng tay phù thủy ) .Toàn bộ cây là có độc ( gồm có cả rễ và hạt ). Tử vong hiếm xảy ra, nhưng có thông tin về những ca xảy ra. Hầu hết những phơi nhiễm thực vật xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 6 tuổi, thường là do vô ý và không có độc tính đáng kể đi kèm. Độc tính nghiêm trọng hơn xảy ra khi trẻ vị thành niên và người trưởng thành cố ý ăn nó. [ 19 ] Các triệu chứng bắt đầu của việc ăn nó gồm có buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, ảo giác hoang dại, mê sảng và đau đầu kinh hoàng. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của ngộ độc, sau đó nạn nhân hoàn toàn có thể bị mạch đập không đều và chậm, run rẩy, những rối loạn não khác nhau, đặc biệt quan trọng là về trạng thái thị giác ( thị giác sắc tố khác thường ( xem chứng sắc vàng ) với những vật thể có quầng màu từ hơi vàng đến xanh lục và xanh lam xung quanh ), co giật và những rối loạn tim gây chết người. Để biết miêu tả của một ca, xem bài viết của Lacassie. [ 20 ] ” Thời kỳ vàng ” của Vincent van Gogh hoàn toàn có thể đã chịu ảnh hưởng tác động bởi trị liệu digitalis, vào thời gian đó được cho là để trấn áp những cơn động kinh. Như đã quan tâm ở trên, những hiệu ứng ngộ độc thị giác khác của digitalis gồm có thị lực mờ nói chung, cũng như việc nhìn thấy một ” quầng ” xung quanh mỗi điểm sáng. [ 21 ]

Trong một số trường hợp, người ta hay nhầm lẫn digitalis với cây sẹ (liên mộc, Symphytum spp.) tương đối vô hại và thường được dùng để pha trà, với hậu quả chí tử. Các tai nạn chết người khác liên quan đến việc trẻ em uống nước trong bình chứa các cây dương địa hoàng.[22] Sấy khô không làm giảm độc tính của cây. Các cây này là độc hại với động vật, bao gồm tất cả các nhóm gia súc, gia cầm, cũng như với mèo và chó.

Ngộ độc digitalis có thể gây ra phong bế tim và hoặc là nhịp tim chậm (giảm nhịp tim) hoặc là nhịp tim nhanh (tăng nhịp tim), tùy thuộc vào liều lượng và tình trạng tim của từng người. Đáng chú ý, thủ thuật tim mạch điện (gây “sốc” tim) thường không được chỉ định trong rung thất trong ngộ độc digitalis, do nó có thể làm tăng chứng rối loạn nhịp tim.[23][24] Ngoài ra, loại thuốc kinh điển được lựa chọn cho rung thất trong tình huống khẩn cấp,[25] amiodarone, có thể làm trầm trọng thêm chứng rối loạn nhịp tim do digitalis gây ra, do đó, thuốc lựa chọn thứ hai lidocaine thường được sử dụng.[26]

Digoxigenin (DIG) là một steroid chỉ được tìm thấy trong hoa và lá của 2 loài D. purpureaD. lanata. Nó được sử dụng như một đầu dò phân tử để phát hiện DNA hoặc RNA. Nó có thể dễ dàng gắn vào các nucleotide bằng các sửa đổi hóa học. Các phân tử DIG thường liên kết với các nucleotide uridine; Sau đó, có thể tích hợp uridine gắn nhãn DIG (DIG-U) vào RNA thông qua phiên mã in vitro. Khi lai ghép hóa xảy ra in situ, các đầu dò RNA với DIG-U tích hợp có thể được phát hiện bằng các kháng thể kháng DIG tiếp hợp với phosphatase kiềm. Để phát hiện các phiên mã lai ghép, phosphatase kiềm có thể cho phản ứng với một tác nhân sinh màu để tạo ra kết tủa có màu.

Thư viện ảnh[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories