Dân là ai? :: Suy ngẫm & Tự vấn :: https://blogchiase247.net

Related Articles

Người Việt Nam mới có câu:Quan nhất thời, dân vạn đại

Nhất thời thìnhất thời, vạn đại thì vạnđại, nhưng làmquan nhất thời vẫn oai hơn là dân vạnđại. Làm quan mới khó chứ làmdân thìai mà chẳng làm được. Tuy nhiên, chớ có xem thường làm dân, hình như cáigọi là “dân“ này càng ngàycàng được ưa chuộng. “Nhà nước của vua” xem ra đã quálỗi thời rồi,bây giờ phảilà “Nhà nước của dân”. Nhiều thứ khác cũng thay đổi theo như “Nghệsĩ nhândân”, “Nhàgiáo nhândân” “Đại học nhândân “, “Tư bản nhân dân”. Tại saolại có chuyện “vật đổi sao dời” như vậy?

Hãy bắt đầu chữ “dân” vậy. Chữ “dân” ngày nay có nguồn gốc từ chữ triện, đó là hình tượng con mắt bị cái que đâm thủng. Sở dĩ như vậy là vì ngày xưa hai bên đánh nhau, lúc đầu tù binh bị bắt đều bị giết sạch nhưng về sau được giữ lại để làm nô lệ. Vì sợ đám nô lệ này chống đối nên người ta phải làm cho chúng mù mắt. Như vậy, “dân” vốn là nô lệ, là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội. Nhưng bởi vì số lượng đông đảo, lại là nhân tố chủ yếu tạo ra của cải xã hội, cho nên ảnh hưởng lại rất lớn đối với tình hình kinh tế – chính trị. Bởi vậy nên hơn 4000 năm trước đây, từ thời đại Hạ, Thương, Chu ở Trung Quốc, sở dĩ nhà Ân thay thế nhà Hạ, nhà Chu thay thế nhà Ân cũng đều do sai lầm về quan hệ của Nhà nước đối với “dân”. Cho nên “dân là gốc” (dân bản) là tư duy chính trị nảy sinh ở thời điểm đó!(1). “Dân là gốc” trở thành bài học quan trọng bậc nhất đối với sự còn mất của chính quyền. Bài học này được Kinh Thư (hay còn gọi là Thượng Thư), kinh sách cổ xưa nhất của Trung Quốc, đồng thời cũng là một trong những kinh điểm quan trọng nhất của Nho giáo chép lại như sau:

“ Đạo đức chính là ở chỗ chính sự được xử lý một cách thỏa đáng, còn yếu tố cơ bản của chính sự lại ở chỗ lo cái ăn, cái mặc, lo dạy dỗ cho dân ” ( Đức duy thiện chính, chính tại dưỡng dân. Thiên Đại vũ mô )“ Đối với dân, chỉ hoàn toàn có thể thân mật họ chứ không hề khinh rẻ họ. Dân mới chính là gốc của Nhà nước, gốc có vững thì nước nhà mới yên ổn. Ta thấy rằng ngay đến một kẻ đàn ông, dàn bà ngu dốt nhất cũng hoàn toàn có thể hơn ta ” ( Dân khả cận, bất khả hạ. Dân duy bang bản. Bảng cố bang ninh. Dư thị thiên hạ ngu phu ngu phụ nhất năng thắng dư. Thiên Ngũ tử chi ca ) .“ Cái gì mà dân muốn thì trời cũng phải thuận theo ” ( Dân chi sở dục, thiên tất tòng chi. Thiên thái Thệ ) .Sách Đại học còn khuyên nhà cầm quyền rằng :“ Cái gì mà dân thương mến thì cũng tức là cái mà nhà cầm quyền thương mến, cái gì mà dân ghét bỏ thì cũng là cái mà nhà cầm quyền phải ghét bỏ ” ( Dân chi sở ái, ái chi, dân chi sở ố, ố chi ) .Phan Bội Châu đúc rút như sau :“ Dân vẫn là đại biểu cho trời mà quyền dân vẫn thay được quyền trời, dân tức là trời, đời xưa vẫn đã có như vậy ” ( 2 )Sở dĩ người ta đặt ngang hàng “ dân ” với “ trời ” là chính do muốn cảnh tỉnh nhà cầm quyền bớt chủ quan, bớt độc đoán trong những quyết sách. Nêu như cho rằng ý của nhà cầm quyền là lòng dân thì e rằng đó không phải là cách hay để nhắc nhở nhà cầm quyền .Sách Tả truyện còn làm một cuộc “ thay đổi ” ý niệm về chữ “ Trung ”. Lâu nay người ta thường nói là “ trung với vua ” ( trung quân ) chưa có ai nói là “ trung với dân ” ( trung ư dân ) đâu. Ấy vậy mà sách Tả truyện lại chép rằng :“ Cái gọi là Đạo thực ra là trung với dân, tin ở thần. Bề trên tâm lý những điều có lợi cho dân, như vậy gọi là trung ” ( Sở vị đạo, trung ư dân nhi tín ư thần dã. Thượng tư lợi dân, trung dã. Tả truyện, Tương Công lục niên ) .Như vậy “ trung ” được đổi chiều hướng “ dân ” thấp kém tự nhiên trở thành đối tượng người dùng của “ trung ”. Người ta cho rằng, ông Mạnh Tử rất hoàn toàn có thể đã dựa vào cuộc “ cách mạng ” của Tả chuyện để được thế công bố một câu động trời :“ Dân là quan trọng hơn cả, xã tắc thứ hai, còn vua thì không có gì đáng bận tâm ” ( Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Mạnh Tử, Đằng Văn Công hạ ) .NhiệmKế Dũ cho rằng Mạnh Tử chẳng thể nào lại có tư tưởng “ dân chủ ” ở trong một xã hội phong kiến đậm đặc như vậy trước công nguyên. Theo ông, Mạnh Tử không so sánh “ giá trị ” mà chỉ so sánh “ yếu tố ” giữa vua và dân mà thôi :“ Khẩu hiệu này của Mạnh Tử lâu nay đã mê hoặc 1 số ít người. Học giả tư sản cận đại còn lý giải “ dân vi quý ” theo quan điểm “ dân chủ ” tư sản. Họ cho rằng Mạnh Tử có tư tưởng dân chủ. Thực ra đó chỉ là suy luận chủ quan mà thôi. Kỳ thực Mạnh Tử chỉ đặt yếu tố “ trị dân ” cấp thiết là hơn yếu tố quản trị đất đai sông núi ( xã tắc ), yếu tố của vua không lớn lắm ( quân vi khinh ). Mạnh Tử trọn vẹn không có ý cho rằng dân là cao quý hơn vua. Không những Mạnh Tử không có tư tưởng đó đã đành mà mấy nghìn năm qua cũng chẳng cứ chủ nô nào ở chính sách chiếm hữu nô nệ hoặc địa chủ nào ở chính sách phong kiến lại có tư tưởng đó ” ( 3 )Quan niệm về “ dân ” của Mạnh Tử vừa bị phê phán từ phía “ tả ” nhưng đồng thời cũng bị phê phán cả từ phía “ hữu ” nữa. Nguyễn Trường Tộ là một trong những người kịch liệt chỉ trích ý niệm “ dân chủ ” này của Mạnh Tử .Như Mạnh Tử có nói : “ Dân là quý rồi mới đến vua. Câu nói này đã từng mở đường cho vô số bọn hủ Nho sau này lấy cớ mượn việc làm để thao tác tư ” ( Thiên hạ đại thế luận ) .Từ chỗ phê phán ý niệm “ dân vi quý ” của Mạnh Tử, Nguyễn Trường Tộ cũng phản bác luôn ý niệm xem “ dân là gốc ” .“ Người xưa có nói : ” Dân là gốc của nước “. Nói như vậy cũng chẳng đúng. Tôi cho rằng vua quan mới là gốc của nước. Vì rằng chẳng có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ làm mưa làm gió tranh chấp quyền lực tối cao, cướp đoạt của nhau, tàn sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Cho nên nước mà có vua bạc nhược còn hơn là không có vua. Trong Kinh Thánh xưa của Đạo giáo có nói : vua tuy bạo ngược nhưng dân cũng không được có hai lòng. Vì rằng dân mà làm mưa làm gió thì trước hết chưa thấy tổn hại đến vua đâu cả mà đã thấy tổn hại đến dân rồi ” ( Thiênhạ đại thế luận ) .

Thực ra quan niệm “vua quan mới là gốc của nước”, của Nguyễn Trường Tộ cũng chẳng phải do ông đề xướng đầu tiên. Chính Tuân Tử, người đặt viên gạch cho ngôi nhà Pháp gia, từ lâu đã cho rằng vua mới là nguyên nhân của mọi vấn đề xã hội:

” Đạo thực ra là gì vậy ? Xin thưa rằng : “ Đạo là Đạo của vua “. Cho nên ” vua là nguồn gốc của dân, mguồn trong thì nước trong, nguồn đục thì nước đục ” ( Đạo giahà dã ? Viết : quânđạo dã. Quân giả, dân chi nguyên dã, nguyên thanh tắc lưu thanh, nguyên trọn tắc lưu trọc. Tuân Tử, Quân đạo ) .Sau đó, Hàn Phi còn ” bổ trợ ” thêm rằng vua là điểm tựa đã đành mà kể cả quan lại nữa, phải ” lấy quan lại làm thầy ” ( Dĩ lại vi sư. Hàn PhiTử, Ngũđôi ), có nghĩa là hàng loạt cỗ máy nhà nước mới là điểm tựa duy nhất chứ không phải là dân .Phan Bội Châu lại không nghĩ như vậy, ông nhìn nhận rất cao ý niệm ” dân vi quý ” của Mạnh Tử :” Học thuyết từ đời thầy Mạnh Tử trở lại trước, thiệt chưa có ai yêu cầu dân quý hơn vua, ngay đến đức Khổng Tử cũng chưa thấy nói tới. Chỉ duy đến thầy Mạnh, thoạt tiên phong nói một câu rằng : “ Dân vi quý, quân vi khinh ” … Xem ý tứ đoạn này thì thầy Mạnh xem chủ quyền lãnh thổ ở trong nước thuộc về nhân dân, tinh ý cũng không khác gì J.J.Rousseau ở bên Pháp. Học giả đời giờ đây quý trọng Rousseau mà bỏ quên Mạnh Tử, thật không biết tâm lý như thế nào ” ( 4 ) .Chẳng trách Phan Bội Châu đã xem Khổng học như thể một ngọn đèn soi sáng của của trái đất ( Khổng học đăng ) .Phan Bội Châu nhìn nhận cao Mạnh Tử nhưng cũng chẳng nhìn nhận thấp Tuân Tử. Tuân Tử chẳng đã từng cho rằng “ Vua là thuyền, dân là nước, nước hoàn toàn có thể chở thuyền, nước cũng hoàn toàn có thể lật thuyền ” ( Quân giả, chu dã ; thứ nhân ( 5 ) giả, thủy dã. Thủy tắctải chu tắc phúc chu. Tuân Tsf, Vương chế ) Ngưyễn Trãi là người nổi tiếng “ lo cho dân ”, khi nào cũng đặt ” an dân ” ( việcnhân nghĩa cốt ở andân ) lên số 1, ngay sau khi cuộc chiến tranh vừa chấm hết, ông đã nhắc lại câu nói trên của Tuân Tử trong Chiếu về việc làm bài Hậutự huấn để răn bảo thái tử. Nhưng hình như sau này tưởng chừng ngai vàng đã vững vì vậy Minh Mạng tỏ ra chẳng hứng thú gì mấy với thứ ” thuốc đắng dã tật ” đó. Khi đi tuần du đến Quảng Nam, thư sinh Nguyễn Tiến Chương đã ” chú thích ” thêm cho câu nói củaTuân Tử rằng nước hoàn toàn có thể lật thuyền chứ thuyền thì chẳng làm gì được nước. Kết quảlà thư sinh Chương đã phải chết vì ” chú thích ” không đúng thời gian này, thời gian mà nhà Nguyễn đâu còn xem dân là Trời nữa. Điểm tựa đã từ Trời chuyển sang vua quan từ lâu rồi còn đâu !Như vậy là bài học kinh nghiệm về ” dân ” đã được cảm nhận thâm thúy cách ngày này những hơn ba nghìn năm, cho dầu điểm tựa đó là ” dân ” hay là ” vua quan “, cho dầu nhà cầm quyền là ” cha mẹ ” của dân hay là ” công bộc ” của dân, thực ra ” dân ” trong xã hội phong kiến sau cuối cũng chỉ là phương tiện đi lại mà thôi .Trong những ngày đầu sau khi nước Nước Ta sinh ra, Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến ý niệm ” dân là gốc ” ( dân vi bản ) truyền thống lịch sử. Một quốc gia vừa thoát khỏi chính sách phong kiến, tuy đã quá quen với khẩu hiệu ” dân là gốc “, nhưng có khi nào triển khai được điều đó đâu. Cho nên nhắc lại ” dân là gốc ” không phải để nói mà chính là để làm, không những để làm mà còn cần phải quy đổi “ dân bản ” sang ” dân chủ ” trong xã hội mới trên nền tảng xã hội cũ. Khi vấn đáp phóng viên báo chí báo quốc tế, khi đề cập đến Nhà nước, đến chính đảng, Hồ Chí Minh cũng không quên thống nhất điều đó .” Trong một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tin cậy, tự do tổ chức triển khai. Nhưng vì thực trạng và nghĩa vụ và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọiđảngphái. Nay tôi chỉ có một tin yêu vào dân tộc bản địa độc lập. Nếu cần có Đảng phái thì sẽ là Đảngdân tộcViệt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục tiêu làm cho dân tộc bản địa ta trọn vẹn độc lập. Đảng viên của Đảng đó sẽ là tổng thể quốc dân Nước Ta, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài ” ( 6 ) .Ông Vũ Đình Hòe trong Tạp chí xưa và nay, mới gần đây cho rằng Hồ Chí Minh đã thiết kế xây dựng nước Nước Ta dân chủ cộng hóa theo những nguyên tắc ” dân chủ rực rỡ ” chưa từng thấy ở đâu, đó là Đảngtoàn dân, Nhà nước toànquyền, Pháp quyền toàndân ” ( 7 )Nhận định trên đúng hay sai có lẽ rằng cũng cần phải bàn thêm. Tuy nhiên không ai không thừa nhận rằng ” dân ” không ai thừa nhận rằng “ dân ” quả đã có vị trí cực kỳ quan trọng trong tư tuởng Hồ Chí Minh. Người đã thừa kế và đảo lộn ý niệm truyền thống cuội nguồn trước kia về ” dân “. Tuy nhiên quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Dân ở một nước vừa thoát khỏi xã hội phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội, không khỏi phát sinh những vướng mắc cần phải khắc phục. Nếu Đảng là toàn dân, Nhà nước là toàn dân thì phân loại thành ba ngôi một cách cứng ngắc như lâu nay liệu có gì xích míc hay không ? Bởi vì Đảng và Nhà nước là của dân vì vậy không hề ở ngoài dân được. Nếu cho rằng “ dân ” làm chủ, Đảng chỉ huy, Nhà nước quản trị, vậy không biết liệu có ai làm chủ mà không chỉ huy và không quản trị chưa ? Càng không hề có ông chủ nào mà không có quyền quyết cả. Đảng và Nhà nước cũng là dân, do đó dân làm chủ, đồng thời cũng là chỉ huy và quản trị. Những khái niệm như ” dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ” hình như vẫn đặt “ dân ” ở vị trí thụ động hơn là dữ thế chủ động. ” Dân chủ ” không phải là ” được ” mà phải là ” là “, ” dân ” không phải là ” khách thể ” mà phải là ” chủ thể “. Dân không còn thuộc về một quý phái cố định và thắt chặt thấp nhất như ở xã hội phong kiến .Nhà nước Nước Ta vừa thoát thai từ xã hội phong kiến vì vậy cách phân loại ” siêu hình ” dân, Đảng, Nhà nước cũng như quan hệ giữa chúng chưa thực sự hợp lýcũng là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên yếu tố đa phần nhất, khó nhất vẫn là quyền làm chủ thực sự của dân. Triết lý sống ” ai cần ai ” hình như đã làm đổi khác vị trí xã hội. Trước đây “ Ta ” cần dân do đó dân là ” trời ” giờ đây dân cần ” Ta ” chính bới ” Ta ” có chức có quyền, vì vậy ” Ta ” mới là ” trời “. Hiện tượng “ hành dân “, ” xa dân “, ” vô cảm ” với dân đang trở thành không khó thấy lắm. Làm sao để ” dân ” không phải chỉ là thứ thời trang trình diễn ở những dạ hội sang chảnh mà còn phải để nó trở thành thường phục ở khắp nẻo đường kể cả những nơi thôn cùng xóm vắng. Những nơi mà ngay cả người dân ở đó trước đây được gọi là ” trời ” nay gọi là “ ông chủ “, có khi cũng cờn chưa biết mình là ai. Nhưng mặc dầu thế nào đi nữa, ở đầu cuối lịch sử vẻ vang cũng sẽ cho họ biết họ là ai, do tại họ chính là lịch sử vẻ vang. Bởi vì họ chính là mục tiêu suốt cả cuộc sống cách mạng của vị anh hùng dân tộc bản địa Hồ Chí Minh .* Ghi chú 🙁 1 ) Xem : Trần Kim Sinh, Nho học và thế kỷ XXI, Nxb Hoa Hạ, 1996, tr. 2, tr. 11,45 .( 2 ) Phan Bội Châu, Khổng học đăng, Nxb Anh Minh, Huế, 1957, tr. 467 .( 3 ) Nhiệm Kế Dũ, Trung Quốc triết học sự giản biên, Nhân dân xuất bản xã, 1973, tr. 10 .

(4) Phan Bội Châu, Khổng học đăng, Nxb Anh Minh, Huế, 1957, tr.463 – 467.

( 5 ) “ Thứ dân ” : là người dân bình thườn, không có tước trật phẩm hàm. “ Thứ dân ” là nhân dân, “ Thứ ” ở đây là số đông ( xem Từ Hải, Lễ ký thiên Khúc lễ, Đại truyện ). Tuy nhiên, từ thời cổ đại ranh giới được xem là một trong “ tứ dân ” ( Cốc Lương truyện chép : thời xưa “ dân ” có bốn loại : sĩ dân, thương dân, nông dân, công nhân )( 6 ) Trích theo Tạp chí Văn hiến Nước Ta, số 5 ( 49 ) năm 2005 .( 7 ) Tạp chí Xưa và Nay số 242, tháng 6/2005 .

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories