Đa u tủy xương – Huyết học và ung thư học – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Related Articles

Bên cạnh điều trị trực tiếp tế bào ác tính, điều trị cũng phải được hướng đến những biến chứng, gồm có thiếu máu, tăng calci máu, suy thận, nhiễm trùng và tổn thương xương .

Thiếu máu có thể được điều trị bằng erythropoietin tái tổ hợp (40.000 đơn vị tiêm dưới da một lần / tuần) ở những bệnh nhân bị thiếu máu vì hóa trị liệu không phù hợp. Nếu thiếu máu gây ra các triệu chứng hệ thống tim mạch hoặc có triệu chứng nghiêm trọng, cần thiết truyền khối hồng cầu. Sự trao đổi plasma được chỉ ra nếu tăng độ nhớt máu phát triển (xem Bệnh đại phân tử globulin là một rối loạn tế bào ác tính, trong đó tế bào B tạo ra lượng protein đơn dòng IgM quá mức. Các biểu hiện có thể bao gồm tăng đô nhớt máu, chảy máu, nhiễm trùng tái… đọc thêm ). Nếu bệnh nhân thiếu sắt cần sử dụng sắt đường tĩnh mạch. Bệnh nhân thiếu máu cần được kiểm tra định kỳ sắt, transferrin, và ferritin huyết thanh để theo dõi dự trữ sắt.

Tăng calci máu cần được thải muối mạnh, bisphosphonates đường tĩnh mạch sau khi bù nước và đôi khi kết hợp calcitonin hoặc prednisone.

Tổn thương thận có thể được cải thiện bằng bù dịch thích hợp. Ngay cả những bệnh nhân có protein Bence Jones kéo dài, nồng dộ cao (≥ 10 đến 30 g / ngày) có thể có chức năng thận còn nguyên vẹn nếu họ duy trì lượng nước tiểu > 2000 mL / ngày. Mất nước kết hợp dùng thuốc cản quang áp lực thẩm thấu cao đường tĩnh mạch, có thể gây ra suy thận cấp tính ở bệnh nhân có protein niệu Bence Jones. Trao đổi huyết tương có thể có hiệu quả trong một số trường hợp.

Có xu hướng nhiễm trùng khi có giảm bạch cầu do hóa trị liệu. Ngoài ra, nhiễm virus herpes zoster xảy ra thường xuyên hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc chống đa u tủy xương mới, đặc biệt là bortezomib hoặc carfilzomib. Các bệnh nhiễm trùng cần điều trị kháng sinh; tuy nhiên thường không sử dụng kháng sinh dự phòng Dự phòng bằng các thuốc kháng vi-rút (ví dụ, acyclovir, valganciclovir, famciclovir) được chỉ định cho những bệnh nhân dùng bortezomib hoặc carfilzomib. Dự phòng bằng globulin miễn dịch đường tĩnh mạch có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng nhưng thường được dành riêng cho bệnh nhân bị nhiễm trùng tái diễn. Có thể tiêm phòng phế cầu và cúm để ngăn ngừa nhiễm trùng. Tuy nhiên, không nên dùng vắcxin sống ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch này.

Điều trị tổn thương xương đòi hỏi nhiều biện pháp hỗ trợ. Bổ sung canxi và vitamin D giúp duy trì mật độ xương. Nên đinh lượng nồng độ vitamin D khi chẩn đoán và theo dõi định kỳ để điều chỉnh liều.. Thuốc giảm đau và xạ trị giảm liều (18-24 Gy) có thể làm giảm đau xương. Tuy nhiên, xạ trị có thể gây độc hại đáng kể, và vì ức chế chức năng tủy xương, có thể làm giảm khả năng chấp nhận liều gây độc tế bào khi hóa trị toàn thân. Hầu hết bệnh nhân, đặc biệt là những người có tổn thương tiêu xương, loãng xương hoặc mất xương nên dùng bisphosphonate đường tĩnh mạch hàng tháng (pamidronate hoặc acid zoledronic acid). Bisphosphonates làm giảm các biến chứng xương và giảm đau xương và có thể có tác dụng chống u.

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories