Cố đô Huế – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

” Phú Xuân ” đổi hướng tới đây. Đối với những định nghĩa khác, xem Phú Xuân ( xu thế )

Cố đô Huế là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm 1788 khi Hoàng đế Quang Trung tức Nguyễn Huệ lên ngôi. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vào năm 1802 lấy niên hiệu là Gia Long, ông cũng chọn thành Phú Xuân làm kinh đô cho nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Huế kết thúc sứ mệnh là thủ đô Việt Nam vào năm 1945 khi vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị.

Hoa đỏ rực bên Kỳ Đài

Thời kỳ hình thành và tăng trưởng[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1306, Công chúa Huyền Trân về làm vợ vua Chiêm là Chế Mân, đổi lấy hai châu Ô và Rí làm sính lễ. Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp thu vùng đất mới và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Việc gom hai châu này làm một dưới cái tên phủ Thuận Hóa (chữ Hán: 順化) được thực hiện dưới thời nội thuộc Nhà Minh. Đến đời Nhà Hậu Lê, Thuận Hóa là một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1604, Nguyễn Hoàng đã cắt huyện Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành phủ, sáp nhập vào trấn Quảng Nam. Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn, (thế kỷ 17- 18) là vùng đất trải dài từ phía nam đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân.[1]

Năm 1626, để sẵn sàng chuẩn bị cho việc chống lại quân Trịnh, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh đến làng Phước Yên ( Phúc An ) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên và đổi Dinh làm Phủ .Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm nơi đặt Phủ. Năm 1687, Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái, dời Phủ chúa về làng Phú Xuân ( 富春 ), thuộc huyện Hương Trà và năm 1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu dời phủ về làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên làm nơi đặt Phủ mới. Đến khi Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 1738 thì phủ chúa mới quay trở lại lại vị trí Phú Xuân và yên vị từ đó cho đến ngày thất thủ về tay quân họ Trịnh vào năm 1774. [ 1 ] .

Trong thời kỳ nhà Tây Sơn, Phú Xuân là đất phong của Nguyễn Huệ khi ông còn là Bắc Bình Vương. Từ trước khi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Huệ đã định dời đô ra Lam Thành, Yên Trường nhưng mà ông cũng đều không thành. Ở năm 1788, Sau khi chính thức lên ngôi Hoàng đế, ông vẫn chọn Phú Xuân là kinh đô của nhà Tây Sơn. Song vì hoàn cảnh chiến tranh, Quang Trung phải lo đối phó cả hai phía bắc (nhà Thanh) và nam (Nguyễn Ánh), nên ông có ý định chọn tỉnh Nghệ An làm nơi đóng đô vì đây là trung tâm giữa hai đường ra vào, gọi là Phượng Hoàng trung đô. Tuy nhiên thành mơi đang xây dang dở thì vua Quang Trung qua đời, hành cung chưa kịp đổi tên thành cung điện, vua kế vị là Nguyễn Quang Toản vẫn tiếp tục ở lại thành Phú Xuân, không xây dựng Phượng Hoàng trung đô nữa.

Sau khi Hoàng đế Quang Trung mất, thế lực của nhà Tây Sơn suy yếu trầm trọng, vua Cảnh Thịnh lên ngôi vẫn còn nhỏ tuổi, nhân cơ hội này, năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Nguyễn và vẫn chọn Huế làm kinh đô cho triều đại mới vì nhiều lý do: về mặt lịch sử khi trước đó 9 đời chúa Nguyễn đã chọn đất Phú Xuân làm kinh đô, về địa thế Huế nằm ở trung tâm lãnh thổ Việt Nam thống nhất khi ấy, cũng như về chính trị khi ông lo ngại dân chúng phía Bắc còn thương tiếc triều Lê[2][3]. Khi chọn Huế làm kinh đô, vua Gia Long đã cho xây dựng dạng kinh đô có tính phòng thủ: xây dựng một loạt tường thành, cung điện, công sở, đồn lũy ở bờ bắc sông Hương như Kinh Thành cùng với các phòng, bộ nha viện trong kinh thành, các công trình phòng thủ quân sự dọc bờ nước sông Hương, sông Hộ Thành và cửa biển Thuận An. Các công trình trên được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế, kết hợp với kiểu mẫu bố trí từ Trung Quốc và kỹ thuật quân sự, xây tường thành theo lối Vauban từ các nước phương Tây đồng thời tuân thủ theo nguyên tắc địa lý phong thủy phương Đông[4][5]. Việc xây dựng này kéo dài suốt từ triều Gia Long tới triều vua Minh Mạng[4], từ 1802 tới tận 1917 với một loạt các công trình phục vụ cho công việc triều đình, sinh hoạt, tín ngưỡng giải trí của vua quan như: Lục Bộ Đường, Nội Các, Thái Y Viện, Đô Sát Viện, Khâm Thiên Giám, Thái Miếu, Hưng Miếu, điện Phụng Tiên… Ngoài kinh thành còn có các công trình phục vụ giáo dục như Văn Miếu, Võ Miếu, Quốc Tử Giám, Trường Thi…; ngoại giao như Thượng Bạc Viện và giải trí như Hổ Quyền. Cũng trong khoảng thời gian này, Huế đã tự hình thành cho mình một phong cách xây dựng lăng tẩm riêng theo phong cách triết học có sự chi phối của phong thủy địa lý, kết hợp phong cách nhà vườn Huế với phong cách cung đình Huế như ở các khu lăng tẩm tiêu biểu của vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức và Đồng Khánh. Ngoài các công trình trên, giai đoạn này cũng là giai đoạn nhiều chùa quán, đền miếu được xây dựng trùng tu với bốn ngôi quốc tự Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên và quốc quán Linh Hựu cùng với nhiều chùa chiến đền miếu nhỏ khác. Việc này đã hình thành thiền kinh của Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 19 [6]. Cũng với sự có mặt của hoàng gia, giai đoạn này hàng loạt các công trình phủ đệ được xây dựng mà lúc đỉnh cao có đến 85 phủ [6][7].

Từ năm 1917, nhiều khu công trình dân sự mang phong thái kiến trúc châu Âu vào Huế. Tiền đề của việc này đã có từ năm 1884, khi triều đình ký hiệp ước Patenôtre mở đường cho người Pháp kiến thiết xây dựng những khu công trình mang kiến trúc châu Âu ở trấn Bình Đài và lân cận : tòa Khâm Sứ Trung Kỳ ở bờ nam sông Hương được thiết kế xây dựng và một loạt những khu công trình : dinh Công Sứ, nhà Dây Thép, nhà Đoan, nhà Đèn .. cùng với sự Open của thành phố Tây ( quartier Européen ) đã khiến cho những trại binh nhà Nguyễn ở nam sông Hương bị xóa khỏi và dạng kiến trúc dân sự châu Âu Open ở Huế [ 7 ]. Đến năm 1916, khi vị vua chống Pháp là Duy Tân bị bắt và đày đi hòn đảo La Réunion và lập Khải Định lên ngôi, phong thái kiến trúc châu Âu mở màn chính thức xâm nhập can đảm và mạnh mẽ vào Huế kể cả những khu công trình đền đài hoàng cung [ 7 ]. Vua Khải Định mở màn cho thiết kế xây dựng, tái tạo hàng loạt khu công trình với phong thái kiến trúc mới, vật tư mới phi truyền thống cuội nguồn mà tiêu biểu vượt trội là xây mộ vua Đồng Khánh năm 1917, tái tạo tăng cấp khu vực Hoàng Thành ( 1921 – 1923 ) [ 7 ], xây An Định Cung và tiêu biểu vượt trội nhất là Ứng Lăng với phong thái châu Âu tích hợp với lý số tử vi & phong thủy phương Đông, trang trí theo Nho giáo [ 8 ]. Người kế vị vua Khải Định là Bảo Đại cũng tái tạo một loạt những khu công trình trong Hoàng Thành theo phong thái Âu hóa tạo một diện mạo kiến trúc mới cho quần thể những di tích lịch sử ở Kinh đô Huế [ 8 ] .

Thời kỳ khủng hoảng cục bộ và suy thoái và khủng hoảng[sửa|sửa mã nguồn]

Cách mạng tháng Tám thành công xuất sắc kết thúc 143 năm trị vì của nhà Nguyễn, đồng thời cũng ghi lại một tiến trình khủng hoảng cục bộ và suy thoái và khủng hoảng của quần thể di tích lịch sử Huế. Việc người Pháp quay trở lại Đông Dương và sau đó là sự can thiệp của người Mỹ đã biến Huế với vị trí của mình những năm đó thành một mặt trận giành giật ác liệt của toàn bộ những phe tham chiến đặc biệt quan trọng trong những chiến cuộc tháng 2 năm 1947 và tết Mậu Thân năm 1968 [ 9 ]. Một loạt khu công trình ở Huế trở thành phế tích. Điện Cần Chánh cùng hàng loạt khu công trình khác bị thiêu rụi, cầu Trường Tiền bị đánh sập 2 lần, Trấn Bình Đài bị quân đội Pháp rồi sau đó tới Quân lực Nước Ta Cộng hòa quân sự chiến lược hóa mà tới giờ vẫn còn dấu tích [ 9 ]. Trong sự kiện tết Mậu Thân 1968, những phe tham chiến giành giật nhau ác liệt Huế với cường độ bom đạn ác liệt đã tàn phá những di tích lịch sử Huế kinh hoàng : đàn Nam Giao bị chặt trụi thông, những khu Quan Cư, Binh Xá, Thần Trù … vòng tường thành ngoài cùng bị hủy hoại [ 9 ]. Khu vực lăng tẩm bị rơi vào khu vực tranh chấp hoặc bị bom đạn tàn phá nặng nề. Ngoài ra năm 1953 và năm 1971, Huế còn trải qua hai trận lũ lớn càng làm cho những di tích lịch sử Huế bị thương tổn nặng [ 9 ] .Sau 1975 kết thúc cuộc chiến tranh Nước Ta, hàng loạt quần thể di tích lịch sử Huế bị tàn phá hư hỏng nặng nề với việc Tử Cấm thành gần như bị xóa khỏi, những khu vực lăng tẩm đền miếu trong ngoài Kinh Thành bị hư hỏng nặng [ 9 ]. Ngoài ra do không được chăm nom, những khu công trình còn bị tàn phá bởi vạn vật thiên nhiên, cây cối xâm thực, ao hồ tù đọng không nạo vét [ 9 ]. Mặc dù chính quyền sở tại mới xây dựng đã đưa việc lập xếp hạng di tích lịch sử, đưa quần thể kiến trúc di tích lịch sử Huế vào bảo vệ ngay những buổi đầu sau cuộc chiến tranh, nhưng do nhiều định kiến về chính trị khi ấy đã khiến việc bảo vệ di tu Huế vẫn bị quên béng thậm chí còn Open việc sử dụng bừa bãi những khu công trình di tích lịch sử không đúng mục tiêu, cho đến ngày xây dựng Công ty Quản lý Lịch sử Văn hóa Huế vào năm 1982 [ 9 ] [ 9 ] .

Thời kỳ khôi phục[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1981, tại TP. Hà Nội, ông Amadou Mahtar M’Bow tổng giám đốc UNESCO đã ra lời lôi kéo cứu vãn Huế và phát động một cuộc hoạt động quốc tế giúp đưa việc di tu tôn tạo Huế trở lại quỹ đạo bắt đầu [ 10 ]. Năm 1982, nhóm công tác làm việc Huế-UNESCO được xây dựng để theo dõi chỉ huy công cuộc trùng tu lại Huế [ 10 ]. Nhóm này đã tổ chức triển khai được 9 kỳ họp để tiến hành phân công công tác làm việc bảo tồn với sự tương hỗ và hợp tác của chính quyền sở tại Nước Ta. Qua 19 năm tích cực thực thi công cuộc Phục hồi, di tích lịch sử Huế đã từng bước được cứu vãn và hồi sinh. Nhiều di tích lịch sử có mức độ hư hỏng từ 30 % – 60 % đã được trùng tu [ 10 ]. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô Huế đã sửa chữa thay thế tăng cấp tôn tạo nhiều khu công trình với tổng kinh phí đầu tư trên 66 tỷ đồng từ ngân sách địa phương và viện trợ quốc tế [ 10 ] trong đó có nhiều khu công trình giá trị cao như : Ngọ Môn, Thái Hòa, Hưng Tổ Miếu, Long An Điện, Kỳ Đài … Năm 1999 liên tục trùng tu một đợt lớn với kinh phí đầu tư trên 20 tỷ đồng với ngân sách từ chính quyền sở tại TW Nước Ta là 11,5 tỷ. Cả UNESCO và chính phủ nước nhà Nước Ta là hai tác nhân quan trọng cùng ảnh hưởng tác động và tương hỗ quy trình hồi sinh và hồi sinh quần thể di tích lịch sử Huế [ 11 ]. Năm 1998, UNESCO chính thức đề xuất kiến nghị chấm hết cuộc hoạt động quốc tế cứu vãn Huế để chuyển sang quá trình ủng hộ sự tăng trưởng vững chắc [ 11 ] .Hiện, nhà nước Nước Ta đã phê duyệt Dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử cố đô Huế từ năm 1995 đến năm 2010 nhằm mục đích khuynh hướng cho công cuộc bảo tồn di tích lịch sử Cố đô Huế [ 10 ] .

Di sản văn hóa truyền thống vật thể[sửa|sửa mã nguồn]

Quá trình công nhận của UNESCO[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1951, Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại gia nhập UNESCO.[12] Các năm 1971 và 1973, UNESCO 2 lần cử chuyên gia Brown Morton để khảo sát về di tích triều Nguyễn và lượng định khả năng trùng tu. Năm 1974, ông Brown đệ trình lên UNESCO bản báo cáo kỹ thuật nhan đề “The Conservation of Historic Sites and Monuments of Hue“. Năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức gia nhập UNESCO và sau đó 2 năm, năm 1978, UNESCO lại cử một chuyên gia tên Pierre Pichard đến khảo sát Huế một lần nữa. Sau khi về Paris, ông Pierre đệ trình lên UNESCO một bản báo cáo nhan đề “La Conservation des Monuments de Huế” (Bảo tồn Di tích Huế)[12]. Năm 1980, UNESCO cùng với Chính phủ Việt Nam đề ra kế hoạch hành động “Bảo vệ, Tu sửa và Tôn tạo di tích Huế”. 1981, tại Hà Nội, ông Amadou Mahtar M’Bow tổng giám đốc UNESCO đã ra lời kêu gọi cứu vãn Huế và phát động một cuộc vận động quốc tế giúp đưa việc di tu tôn tạo Huế trở lại quỹ đạo ban đầu[10][13] rồi sau đó họ cử nhiều chuyên gia và đưa nhiều gói viện trợ nhằm hỗ trợ Việt Nam. Đến năm 1987, Việt Nam gia nhập “công ước Bảo vệ Di sản Văn Hóa và Thiên nhiên Thế giới” của UNESCO.[13]

Năm 1990, UNESCO đề nghị Chính phủ Việt Nam lập hồ sơ một số công trình kiến trúc, thiên nhiên trong đó có khu Di tích Huế.[13] Với sự hướng dẫn giúp đỡ của các chuyên gia UNESCO, trong hai năm 1992 và 1993, Trung tâm bảo tồn Di tích Cố Đô Huế đã thực hiện bộ hồ sơ về Quần thể di tích Cố đô Huế nộp lên Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO (ICCROM). Tháng 3 năm 1993, một chuyên gia của ICCROM và IUCN đến Việt Nam để thẩm định giá trị của các khu vực Việt Nam nộp hồ sơ, trong đó có khu di tích Huế[14] và đến tháng 9 năm 1993, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô gửi hồ sơ bổ sung cho UNESCO. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, trong một phiên họp tại Carthagène (Colombia), Hội đồng đã ghi danh Quần thể di tích Cố đô Huế vào Danh mục Di sản Thế giới. Ngày 2 tháng 8 năm 1994, đích thân Phó Tổng Giám đốc UNESCO, ông Daniel Janicot, đến Huế trao tấm bằng chứng nhận của UNESCO cho Huế có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, ông Fédérico Mayor Zaragoza với dòng chữ: “Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại”.[10][14]

Cụm di tích lịch sử trong kinh thành Huế[sửa|sửa mã nguồn]

Kinh thành Huế[sửa|sửa mã nguồn]

Kỳ Đài và một đoạn thành HuếKinh thành Huế được vua Gia Long và đại thần Nguyễn Văn Yến thực thi khảo sát thực địa vào hai năm 1803 và 1804. [ 15 ] Đến mùa hè năm 1805, khu công trình kiến thiết xây dựng kinh thành mở màn được thi công thiết kế xây dựng [ 16 ] với địa phận nằm trên khu vực hai chi lưu của sông Hương là Kim Long và Bạch Yến ; với mặt phẳng nằm trên khu vực 8 làng cổ là : Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại [ 15 ]. Quá trình thiết kế xây dựng lê dài không liên tục cho đến tận năm 1823 mới cơ bản triển khai xong dưới triều vua Minh Mạng với sức lao động của hàng vạn lính và dân từ khắp những tỉnh, thành trong cả nước mà đa phần đến từ miền Trung Nước Ta [ 16 ]. Kinh thành Huế được thiết kế xây dựng trên một mặt phẳng gần như như hình vuông vắn với mặt trước hơi khum hình cánh cung [ 17 ], tuân thủ ngặt nghèo theo nguyên tắc kiến trúc của dân tộc bản địa Nước Ta xuất phát từ Dịch Lý và thuật Phong Thủy dựa vào những thực thể vạn vật thiên nhiên để tạo những yếu tố hòa giải về Phong Thủy như núi Ngự là Tiền Án, sông Hương là Minh Đường, cồn Hến và cồn Dã Viên lần lượt là tả Thanh Long và hữu Bạch Hổ và quay mặt về hướng nam theo một lao lý của sách Chu Dịch : ” Vua quay mặt về phía nam để quản lý, hướng về lẽ sáng để thao tác nước ” [ 18 ]. Vòng tường thành với chu vi 10571 m [ 17 ] được xây bó bằng gạch được kiến thiết xây dựng kiến trúc Vauban hay ” thành lũy hình ngôi sao 5 cánh ” [ 18 ] với 24 pháo đài trang nghiêm và 10 cửa chính cùng 1 cửa phụ cùng ; với một mạng lưới hệ thống hào nước phức tạp [ 16 ]. Sau đó, mạng lưới hệ thống khu công trình kinh thành được liên tục bổ trợ trùng tu thiết kế xây dựng thêm khu công trình mới 1836, 1839, 1842, 1844, 1846, 1848 [ 16 ] … Chức năng chính của Kinh thành dùng để phòng vệ, ship hàng hoạt động và sinh hoạt của triều đình và nhà vua [ 15 ]. Dù chịu sự tàn phá kinh hoàng của bom đạn, mà đặc biệt quan trọng là năm Mậu thân ( 1968 ), nhưng cụm khu công trình này vẫn sống sót với rất đầy đủ diện mạo của nó [ 19 ] .Hiện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong map Huế như sau : phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn ; phía tây giáp đường Lê Duẩn ; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Bên trong kinh thành, được số lượng giới hạn theo map thuộc những đường như sau : phía nam là đường Ông Ích Khiêm ; phía tây là đường Tôn Thất Thiệp ; phía bắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía đông là đường Xuân 68 .

Khu vực Đại Nội[sửa|sửa mã nguồn]

Điện Thái Hoà

Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là hai không gian có liên hệ chặt chẽ với nhau với Tử Cấm Thành nằm trong lòng Hoàng Thành[20], nên thường được gọi chung là Hoàng thành hay Đại Nội. Việc xây dựng hệ thống Hoàng cung này đã được bắt đầu từ năm 1803[20], nhưng vì đòi hỏi về nơi sinh hoạt ăn ở của Hoàng gia, công trình đã được ưu tiên xây dựng từ năm 1804, trước khi Kinh thành được xây một năm[21]. Việc xây dựng tường thành được đích thân vua Gia Long trực tiếp giao cho hai Đại thần Nguyễn Văn Trương và Lê Văn Chất đứng ra đốc thúc xây dựng. Còn các công trình đền miếu, cung điện quan trọng đều do các quan lớn như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, Phan Văn Đức, Lê Công Nga chịu trách nhiệm trông coi[21]. Dưới thời vua Gia Long, hầu hết các công trình cơ bản đã hoàn tất như về thờ cúng: Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân,[22] các công trình phục vụ việc triều chính, sinh hoạt, giáo dục của quan lại, hoàng gia: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa[22]… Tới thời vua Minh Mạng, ông đã liên tục nâng cấp xây dựng hoàn chỉnh thêm nhiều công trình như cung Trường Ninh,Hiển Lâm Các, Thế Miếu, dời điện Thái Hòa ra phía trước, xây dựng Đại Cung môn, Ngọ Môn, đúc Cửu Đỉnh và nhiều công trình khác như lầu Minh Viễn, sở Thượng Thiện, Đông Các, nhà hát Duyệt Thị[22]… hoàn chỉnh diện mạo kiến trúc của Hoàng thành và Tử Cấm thành.[22] Đời vua sau đó như Thiệu Trị cũng xây dựng được thêm một số công trình như vườn Cơ Hạ, nhà hát Tịnh Quan, hoàn chỉnh nâng cấp Lục Viện và cung Trường Sanh.[23] Tám đời vua kế nghiệp tiếp theo từ Tự Đức đến Duy Tân, do tình hình đất nước khó khăn, kinh tế tài chính suy tàn sa sút,[23] họ chỉ cố gắng giữ những gì mà 3 vị vua đầu triều để lại.[24] Tới thời vua Khải Định và Bảo Đại, họ thực hiện một loạt cải tạo (các cửa Hoàng Thành) hoặc làm mới các công trình kiến trúc (lầu Kiến Trung, Ngự tiền Văn phòng, lầu Tứ Phương Vô Sự, lầu Tịnh Minh…) theo phong cách chịu ảnh hưởng theo phong cách phương Tây.[24] Tất cả chia ra làm 3 khu vực: đại lễ, thờ cúng, sinh hoạt, kho tàng, học tập, làm việc của quan lại và hoàng gia.[24][25]

Mặt bằng của cụm khu công trình này có hình chữ nhật với mặt trước mặt sau dài 622 m và mặt trái mặt phải dài 604 m. [ 21 ] Xung quanh tường thành của Hoàng thành là những pháo đài trang nghiêm xây nhô ra và mạng lưới hệ thống tường hào phủ bọc với 4 cửa để ra vào là Ngọ Môn, Hòa Bình, Hiển Nhân, Chương Đức [ 26 ]. Phần tường thành của Tử Cấm thành có hình chữ nhật mặt trước sau 324 m và trái phải 290 m không có hao bảo phủ, [ 26 ] chỉ có duy nhất một cửa ngay tường giữa là Đại Cung môn [ 26 ] và ba cửa mặt sau là Tường Loan, Nghi Phụng [ 26 ], và Văn phòng môn mới xây sau đó [ 22 ]. Mặt trái có ba cửa Đông An, Cấm Uyển và Duyệt Thị có lẽ rằng được trổ thời vua Bảo Đại, mặt phải có hai cửa là Tây An và Gia Tường. Tất cả bố cục tổng quan đều tuân theo dịch lý, sắp xếp theo kiểu ngặt nghèo và đối xứng từng cặp qua đường trục Ngọ Môn. [ 25 ]Đây là khu vực bị tàn phá rất nặng nề vì bom đạn cuộc chiến tranh. [ 9 ]

Các di tích lịch sử ngoài kinh thành[sửa|sửa mã nguồn]

Lăng tẩm những vua Nguyễn[sửa|sửa mã nguồn]

Hầu hết những vua triều Nguyễn đều kiến thiết xây dựng lăng mộ cho mình ngay khi còn sống vì quan điểm sống gởi thác của nhà Nho và triết lý sắc không vô thưởng của nhà Phật [ 27 ]. Các khu lăng mộ xây sẵn có hai tính năng : là nơi khi còn sống những vua đôi lúc lui tới để đi dạo và là nơi chôn cất khi họ mất [ 27 ]. Tất cả những lăng đều được kiến thiết xây dựng, quy hoạch theo đúng triết lý tử vi & phong thủy phương Đông : bất kể lăng nào cũng tuân thủ những nguyên tắc sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ … đã làm cho những lăng này có được những kiến trúc rất đẹp và thơ mộng [ 27 ] [ 28 ]. Tuy triều Nguyễn có 13 vua, nhưng vì nhiều nguyên do kinh tế tài chính, chính trị nên chỉ 7 vị vua được thiết kế xây dựng lăng [ 28 ] đó là : Lăng Gia Long, Lăng Minh Mạng, Lăng Thiệu Trị, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Lăng Dục Đức, Lăng Khải Định. Mỗi lăng được kiến thiết xây dựng với một kiểu kiến trúc khác nhau, tùy vào thực trạng quốc gia thời kỳ những vị vua lúc còn tại vị. Trong đó, hoành tráng nhất có lẽ rằng là lăng Gia Long [ 29 ] được thiết kế xây dựng trên một quần sơn gồm 42 quả đồi lớn nhỏ, trên tổng diện tích quy hoạnh khoảng chừng 28 km2 với kiến trúc truyền thống cuội nguồn Nước Ta [ 30 ] [ 31 ]. Độc đáo nhất là lăng vua Khải Định là sự tích hợp kiến trúc Đông Tây Kim Cổ với những bức tranh ghép sành sứ độc lạ và không tuân theo bất kỳ phe phái kiến trúc nào [ 32 ]. Do những điều kiện kèm theo lịch sử dân tộc, lăng Dục Đức là lăng tẩm duy nhất chôn cất và thờ tự 3 vua Dục Đức, Thành Thái và Duy Tân .Hiện nay, qua thời hạn những khu di tích lịch sử này đều đã xuống cấp trầm trọng khá nhiều, gần đây đã mở màn có những kế hoạch để trùng tu. [ 33 ]

Các di tích lịch sử khác[sửa|sửa mã nguồn]

Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình

Trong Quần thể di tích Cố đô Huế còn có một loạt công trình khác phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau như: phục vụ giáo dục (Văn Miếu, Võ Miếu, Quốc Tử Giám, Trường Thi…); ngoại giao (Thượng Bạc Viện); quân sự (Trấn Hải Thành) và giải trí (Hổ Quyền). Ngoài các công trình trên, các cơ sở tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong chính sách của triều Nguyễn với rất nhiều chùa quán, đền miếu được xây dựng trùng tu như: bốn ngôi quốc tự Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên và quốc quán Linh Hựu cùng với nhiều chùa chiến, đền miếu nhỏ khác. Việc này đã hình thành thiền kinh của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ 19[6].

Di sản văn hóa truyền thống phi vật thể[sửa|sửa mã nguồn]

Cùng với di sản văn hóa truyền thống vật thể, di sản văn hóa truyền thống phi vật thể của Cố đô Huế cũng vô cùng đa dạng chủng loại và có giá trị văn hóa truyền thống cao. Vào năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể quả đât [ 34 ] .Cùng sống sót với dòng âm nhạc mang tính lễ nghi, cung đình, những mô hình âm nhạc mang tính vui chơi tiêu khiển, dân gian của Cố đô Huế cũng được biết đến như một nổi bật mang đậm truyền thống riêng của một vùng văn hóa truyền thống, mộc mạc thuần khiết, đặc trưng không trộn lẫn. Đó là những điệu múa Huế, những vở tuồng Huế, những bài ca Huế đã lôi cuốn sự chú ý quan tâm của hành khách .

  • Phan Thuận An (2005). Quần thể di tích Huế. Nhà xuất bản Trẻ.
  • Trần Đức Anh Sơn (2004). HUẾ Triều Nguyễn một cái nhìn. Nhà xuất bản Thuận Hóa.

Nguồn thứ hai[sửa|sửa mã nguồn]

  • Quốc sử quán Triều Nguyễn (Viện sử học Việt Nam dịch) (1992). Đại Nam Thực Lục. Nhà xuất bản Thuận Hóa.
  • Trần Quốc Vượng (1994). Bản sắc dân tộc qua sắc thái Huế. SH.
  • Nguyễn Quang Trung Tiến (1999). Quần thể di tích Huế: Những tổn thất từ sự chiếm cứ của người Pháp trước 1945. HX&N.
  • Thái Công Nguyên (1992). Cố đô Huế đẹp và thơ. Nhà xuất bản Thuận Hóa.
  • Thái Công Nguyên (1992). Huế. Một thuở kinh đô. Trung tâm bảo tồn Cố đô Huế.
  • Phùng Phu (1999). Huế. Di sản thế giới. Trung tâm bảo tồn Cố đô Huế.
  • Bulletin des Amis du Vieux Hué. 1914–1944.
  • Dương Văn An (1961). Ô Châu Cận Lục. Sài Gòn: Văn Hoá Á Châu.
  • Nội Các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ (15 tập). Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hóa.
  • Quốc sử quán Triều Nguyễn (Viện sử học Việt Nam dịch) (1969). “Quyển Tự Đức”. Đại Nam Nhất thống chí. Nhà xuất bản Hà Nội.
  • Quốc sử quán Triều Nguyễn (Viện sử học Việt Nam dịch) (1969). “Thời Duy Tân”. Đại Nam Nhất thống chí. Nhà xuất bản Hà Nội.
  • Kinh Sư. Sài Gòn: Nha Văn hóa (bộ Quốc gia Giáo dục). 1960 – 1962.
  • Thừa Thiên Phủ. Sài Gòn: Nha Văn hóa (bộ Quốc gia Giáo dục). 1960 – 1962.
  • Thái Văn Kiểm (1960). Cố Đô Huế. Sài Gòn: Nha Văn hóa (bộ Quốc gia Giáo dục).

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories