Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản vừa đủ của tài liệu tại đây ( 12.25 MB, 351 trang )
thể. Việc phân loại ôtô máy kéo và xe chuyên dụng có thể được tiến hành theo nhiều cách
khác nhau, trong khuôn khổ giáo trình này chỉ đưa ra một số phương pháp phân loại chính
liên quan đến tính năng sử dụng và kết cấu của chúng.
1.1.2.1. Phân loại máy kéo
+ Theo công dụng
Theo công dụng của máy kéo người ta phân máy kéo thành các loại chính sau:
– Máy kéo dùng trong nông nghiệp
Loại máy kéo này có tính năng sử dụng phù hợp với các loại công việc sản xuất nông
nghiệp. Thuộc nhóm này người ta lại phân thành ba loại chính là: Máy kéo có công dụng
chung, máy kéo vạn năng và máy kéo chuyên dùng.
Máy kéo công dụng chung là các máy kéo đảm nhiệm các công việc chính trong sản
xuất nông nghiệp như cày, bừa, gieo trồng v.v…Lực kéo ở móc trong khoảng từ 0,2÷8 tấn với
vận tốc làm việc trong khoảng từ 5÷20 km/h đối với máy kéo xích và 7÷30 km/h đối với với
máy kéo bánh. Công suất động cơ khoảng từ 12 ÷300 mã lực. Chiều cao gầm máy từ 250÷350
mm.
Máy kéo vạn năng là các máy kéo có thể hoàn thành nhiều dạng công việc khác nhau
và có thể thích ứng với nhiều điều kiện sử dụng hơn so với máy kéo công dụng chung. Ngoài
các công việc chính trong sản xuất nông lâm nghiệp, máy kéo vạn năng còn có thể hoàn thành
các công việc như chăm sóc cây trồng, vận chuyển hàng hóa. Thuộc loại máy kéo này chúng
có các đặc điểm kỹ thuật sau: Công suất động cơ từ 10÷100 mã lực, chiều cao gầm máy từ
600÷800 mm, bề rộng cơ sở của xe có thể điều chỉnh được để phù hợp với bề rộng các hàng
cây.
Máy kéo chuyên dùng là các những máy kéo có kết cấu đặc biệt để thực hiện một loại
công việc nhất định hoặc sử dụng trong điều kiện đặc biệt ví dụ như máy kéo dùng để thu
hoạch bông, máy kéo thu hoạch lúa, máy có khung cân bằng dùng trong đồi dốc v.v…
– Máy kéo công nghiệp
Máy kéo dùng trong công nghiệp thường là các máy có công suất lớn dùng để san ủi
mặt bằng các công trình xây dựng, khai thác quặng trong hầm mỏ, vận chuyên hàng hóa nặng
trên các tuyến đường ngắn hoặc đường xấu v.v…
+ Theo cấu tạo bộ phận di động
Bộ phận di động là các cụm máy, chi tiết trực tiếp tác động lên mặt đường, mặt đất để
tạo nên sự chuyển động cho máy kéo. Theo cấu tạo bộ phận di động máy kéo được phân
thành ba loại chính:
– Máy kéo bánh (hình 1-1 a). Bộ phận di động là bánh xe, có thể có hai bánh, ba bánh
hoặc 4 bánh, bánh có thể là bánh sắt hoặc bánh lốp. Hiện nay máy kéo bánh lốp được sử dụng
khá phổ biến do khả năng cơ động và sự chuyển động êm dịu của chúng, máy bánh sắt chỉ sử
dụng trong một số trường hợp đặc biệt khi cần tăng khả năng kéo bám hoặc bánh xe vừa làm
nhiệm vụ của bộ phận di động vừa làm nhiệm vụ của bộ phận làm đất như bánh lồng.
– Máy kéo xích (hình 1-1 b). Đặc điểm chung của loại này là giảm được áp lực riêng
trên đất và có khả năng bám tốt, tuy nhiên kết cấu hệ thống di động phức tạp, giá thành cao.
Máy kéo xích thường được sử dụng để hoàn thành các công việc cần lực kéo lớn như
san ủi, cày bừa trên đất độ ẩm cao, nhổ và ủi gốc cây v.v…
– Máy kéo nửa xích. Loại máy này được thiết kế trên cơ sở của máy kéo bánh, thường
người ta lắp thêm các dải xích bao quanh các bánh xe để tăng khả năng bám với mặt đường.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng …………………………..
7
Hình 1-1. Hình dạng chung của máy kéo:
a) Máy kéo bánh bơm; b) Máy kéo bánh xích.
+ Theo kết cấu của khung
Theo cấu tạo của khung người ta chia máy kéo thành các loại sau:
Máy kéo có khung. Ở loại này tất cả các bộ phận máy và cơ cấu của máy kéo được lắp
trên một khung, khung được chế tạo bằng thép định hình dạng chữ U hay chữ I được hàn và
tán lại với nhau.
Máy kéo nửa khung. Loại máy kéo này có một phần khung liên kết với thân ly hợp,
hộp số và cầu sau tạo thành khung của máy kéo. Động cơ của máy kéo được lắp lên phần
khung phía trước, còn các cơ cấu khác được lắp trên thân hộp số và cầu sau.
Máy kéo không khung. Loại máy này sử dụng phần thân của động cơ, hộp số và cầu
sau, liên kết cứng với nhau tạo thành một khối thống nhất trên đó người ta lắp tất cả các bộ
phận và hệ thống còn lại của máy kéo.
+ Theo loại động cơ dùng trên máy kéo
Dựa theo loại động cơ sử dụng, người ta chia máy kéo ra thành ba loại:
Máy kéo dùng động cơ diêzel;
Máy kéo dùng động cơ xăng;
Máy kéo dùng động cơ điện.
Máy kéo dùng động cơ diêzel được sử dụng phổ biến hơn cả do tính kinh tế và tính
tiết kiệm của động cơ diêzel. Máy kéo dùng động cơ xăng được dùng chủ yếu trên các máy
kéo công suất nhỏ, máy kéo làm vườn v.v… vì nó có kết cấu nhỏ gọn, nhẹ. Máy kéo sử dụng
động cơ điện với nguồn điện lưới có tính kinh tế cao và dễ thực hiện tự động hóa, nhưng đòi
hỏi đầu tư lớn cho hạ tầng cơ sở, nên hiện này vẫn chưa được ứng dụng nhiều trong thực tế.
+ Theo lớp lực kéo
Các công việc mà máy kéo đảm nhiệm đòi hỏi lực kéo ở móc khác nhau và thay đổi
trong phạm vi rộng. Mặt khác mỗi loại máy kéo chỉ làm việc có hiệu quả kinh tế cao trong
một khoảng lực kéo nhất định. Do đó người ta đã thiết kế nhiều loại máy kéo với các lớp lực
kéo ở móc khác nhau. Các máy kéo có lực kéo ở móc mà ở đó máy kéo đạt hiệu suất kéo lớn
nhất được xếp thành một loại, hiện nay người ta chia ra các loại máy kéo sau: 0,2; 0,6; 0,9;
1,4; 2; 3; 4; 5; 6; 9; và 15 tấn. Các loại máy kéo có lớp lực kéo lớn hơn 6 tấn thường dùng
trong công nghiệp. Máy kéo có lớp lực kéo từ 0,2 ÷ 1,4 tấn thường là máy kéo bánh bơm,
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng …………………………..
8
máy kéo có lực kéo từ 2÷5 tấn có thể là máy kéo bánh hoặc máy kéo xích, các máy kéo có lực
kéo trên 6 tấn thường là máy kéo xích hoặc nửa xích.
1.1.2.2. Phân loại ôtô
Hình 1-2. Ôtô du lịch
+ Theo công dụng người ta phân ôtô thành các loại sau:
Ôtô vận chuyển, đó là những ôtô chuyên dùng để chuyên chở hành khách hoặc hàng
hóa. Trong loại này lại được phân ra các loại sau:
Ôtô du lịch (xe con), dùng để chuyên chở hành khách với số ghế ngồi nhỏ hơn 8 (hình
1-2).
Ôtô buýt (xe khách), chuyên dùng để chở khách với số ghế ngồi lớn hơn 8 và thường
chạy theo tuyến đường quy định (hình 1-3).
Ôtô tải là các loại ôtô dùng để vận chuyển hàng hóa (hình1-4). Theo trọng tải cho
phép, người ta chia ôtô tải thành năm loại chính là: Ôtô tải nhỏ với tải trọng dưới 1 tấn; Loại
trung bình có tải trọng từ 1÷3 tấn; Loại lớn có tải
trọng từ 3÷5 tấn; Loại nặng có tải trọng từ 5 ÷10
tấn và siêu nặng có tải trọng trên 10 tấn.
Ôtô chuyên dùng, đó là các loại ôtô được
trang bị các thiết bị đặc biệt để thực hiện các công
việc riêng như ôtô chở bêtông, ôtô cần trục, ôtô
cứu hỏa v.v…Nhìn chung các ôtô chuyên dùng
được thiết kế trên cơ sở các ôtô công dụng chung
có cỡ công suất tương đương, trên đó người ta lắp
các thiết bị và các máy móc chuyên dùng để thực
hiện một dạng công việc đặc biệt nào đó.
+ Theo loại động cơ:
Ôtô dùng nhiên liệu lỏng (xăng, diêzel…);
Ôtô dùng nhiên liêu khí (gas);
Hình 1-3. Ôtô Buýt
Ôtô dùng động cơ điện.
(xe chở khách)
Thông thường do yêu cầu tốc độ cao và giảm
tiếng ồn, nên động cơ xăng thường được dùng trên
ôtô du lịch, động cơ diêzel thường sử dụng trên các ôtô tải hạng trung và hạng nặng. Ôtô dùng
động cơ điện được dùng phổ biến trong giao thông đường phố, trong các xí nghiệp, nhà máy
để giảm tiếng ồn và ô nhiễm môi trường.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng …………………………..
9
+ Theo tính năng cơ động
Tính năng cơ động của ôtô là khả năng chuyển động của chúng trên các điều kiện
đường xá khó khăn và địa hình phức tạp. Theo tính năng này người ta chia ôtô ra thành hai
loại chính:
Hình 1-4. Hình dạng chung của ôtô tải:
a) Xe tải loại nhẹ; b) Xe tải có thùng tự đổ hàng.
Ôtô tính năng cơ động thấp. Loại này chủ yếu được dùng trong thành phố và trên các
đường giao thông chính, mặt đường khô và cứng. Về đặc điểm kỹ thuật, các ôtô này thường
có gầm xe thấp, một cầu chủ động ví dụ ôtô du lịch, ôtô buýt.
Ôtô có tính năng cơ động cao. Đó là các loại xe có khả năng chuyển động được trên
cả các đường xấu hoặc thậm chí không có đường xá. Đặc điểm của các loại xe này là gầm xe
cao, thường có hai, ba thậm chí 4 cầu chủ động. Ôtô tính năng cơ động cao thường gặp ở các
xe quân sự, xe vận tải hạng trung và hạng nặng, xe thể thao địa hình v. v…
1.1.2.3. Phân loại xe chuyên dụng
Xe chuyên dụng là các xe tự hành, chúng được thiết kế chế tạo trên cơ sở của ôtô hoặc
máy kéo cơ sở và được trang bị các thiết bị và máy công tác đặc biệt để hoàn thành một dạng
công việc riêng hoặc trong các điều kiện làm việc đặc biệt. Vì vậy để phân loại xe chuyên
dụng, người ta có thể phân theo nhiều cách khác nhau. Phổ biến nhất là dựa vào loại xe và
loại công việc để phân loại chúng.
+ Theo loại xe cơ sở
Dựa vào loại xe cơ sở trên đó lắp các thiết bị để thực hiện các công việc chuyên dụng
người ta phân ra thành xe ôtô chuyên dụng và máy kéo chuyên dụng, ví dụ ôtô cần cẩu hoặc
máy kéo cần cẩu. Ngoài ra người ta cũng phân xe chuyên dụng theo hệ thống di động của xe
cơ sở như xe chuyên dụng dùng xích hay xe chuyên dụng dùng bánh lốp.
+ Theo loại công việc mà xe chuyên dụng đảm nhận (hình 1-5)
Cách phân loại này được sử dụng phổ biến hiện nay, dựa vào loại công việc mà xe
chuyên dụng cần hoàn thành, người ta chia ra:
Xe chuyên dụng dùng để vận chuyển. Thuộc loại này là các ôtô và máy kéo bánh hoặc
đầu kéo với rơmoóc dùng để vận chuyển các hàng hóa như ôtô vận chuyển và trộn bê tông,
máy kéo hay ôtô vận chuyển hàng tự đổ, ôtô với rơmoóc dùng để chở hàng đặc biệt siêu
trường, siêu nặng v. v…
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 10
Xe chuyên dụng dùng để làm đất. Thuộc vào các xe làm đất gồm các máy kéo xích
hoặc ôtô và máy kéo bánh, kéo theo hay treo trên chúng các máy công tác đặc biệt dùng để
đào đất, san ủi, cạp đất hoặc xúc đất v.v…
Xe bốc xếp
hàng hóa. Đó là các
xe nâng hàng, dùng
động cơ điện hoặc
động cơ diêzel, xe
xúc lật đổ phía trước
hoặc phía sau và xe
cần cẩu.
Xe công dụng
đặc biệt. Thuộc loại
này là các xe có trang
bị các thiết bị đặc biệt
để hoàn thành các
công việc đặc thù như
xe cứu hỏa, xe cứu
thương, xe thu hoạch
gỗ rừng, xe thu hoạch
Hình 1-5. Xe chuyên dụng:
bông v.v..
1- Máy đào gầu sấp bánh hơi; 2-Máy xúc bánh hơi; 3- Ôtô tải tự
đổ hàng; 4- Máy ủi bánh xích.
1.2. Các bộ
phận chính trên ôtô
máy kéo
Ôtô máy kéo và xe chuyên dụng đều là các xe tự hành, vì vậy chúng đều có các bộ
phận chính có chức năng giống nhau. Các bộ phận và hệ thống chính của ôtô máy kéo gồm:
Động cơ, hệ thống truyền lực, truyền lực cacđăng, cầu chủ động, hệ thống di động, hệ thống
treo (hay còn gọi là hệ thống giảm xóc), hệ thống điều khiển gồm hệ thống lái và hệ thống
phanh, trang bị điện và các trang bị làm việc khác.
+ Động cơ là nguồn động lực trên ôtô máy kéo. Hiện nay động cơ đốt trong dùng
nhiên liệu lỏng hoặc nhiên liệu khí được sử dụng chủ yếu trên ôtô máy kéo. Động cơ là một
bộ phận quan trọng của ôtô máy kéo dùng để tạo ra nguồn năng lượng cho xe hoạt động và có
thể truyền một phần hoặc toàn bộ công suất của động cơ đến bộ phận làm việc của máy công
tác liên kết với chúng.
+ Hệ thống truyền lực (HTTL) là tổ hợp của một loạt các cơ cấu và hệ thống nhằm
truyền mômen quay từ trục khuỷu động cơ đến bánh chủ động của ôtô, máy kéo. HTTL còn
có tác dụng nhằm biến đổi về trị số và chiều của mômen quay truyền, cho phép ôtô máy kéo
dừng tại chỗ lâu dài mà động cơ vẫn làm việc, hệ thống truyền lực còn có thể trích một phần
công suất của động cơ để truyền đến bộ phận làm việc của máy công tác. Phụ thuộc vào đặc
điểm cấu tạo của xe máy cụ thể mà trong hệ thống truyền lực của ôtô máy kéo có thể có một
hai hay nhiều cầu chủ động.
Cầu chủ động là tổ hợp của các cụm máy và cơ cấu cho phép các bánh chủ động quay
với tốc độ khác nhau để bảo đảm các bánh lăn êm dịu trên mặt đường không bằng phẳng hay
khi đi vào đường vòng, nó còn làm tăng tỷ số truyền chung cho hệ thống truyền lực và liên kết
bánh xe với khung máy.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 11
Truyền lực cacđăng dùng để truyền mômen từ hộp số hay hộp phân phối đến các cầu
chủ động của ôtô máy kéo, hoặc từ truyền lực chính đến các bánh xe chủ động trên cùng một
cầu khi các bánh xe treo độc lập với nhau. Truyền lực cacđăng cho phép các trục của các bộ
phận máy được truyền động không nằm trong cùng một mặt phẳng và có thể dịch chuyển
tương đối với nhau trong một giới hạn nhất định.
+ Hệ thống di động gồm các bánh xe với lốp đàn hồi hay các chi tiết trong cụm dải
xích của máy kéo xích, hệ thống di động là bộ phận trực tiếp tiếp xúc với mặt đường hoặc mặt
đất, nó nhận mômen chủ động từ động cơ qua hệ thống truyền lực và biến mômen chủ động
thành lực kéo tiếp tuyến hay còn gọi là lực chủ động để làm ôtô máy kéo chuyển động.
+ Hệ thống treo (hay còn gọi là hệ thống giảm xóc) là tổ hợp của một số các chi tiết
và phần tử đàn hồi, liên kết giữa bộ phận di động với khung xe, nhằm giúp cho khung xe được
êm dịu trong khi bộ phận di động luôn chịu tác động của các lực va đập do mấp mô mặt
đường khi chuyển động.
+ Hệ thống điều khiển gồm một loạt các cơ cấu và hệ thống nhằm điều khiển ôtô máy
kéo theo các hướng và chiều cần thiết, đồng thời giúp ôtô máy kéo chuyển động ổn định
không trượt lê sang trái hay phải. Ngoài ra hệ thống điều khiển còn cho phép ôtô máy kéo
giảm tốc độ chuyển động hoặc dừng lại nhanh chóng khi gặp sự cố khẩn cấp.
+ Trang bị điện là tổ hợp của hàng loạt bộ phận, thiết bị điện nhằm đảm bảo giúp cho
ôtô máy kéo làm việc ổn định, tin cậy, tăng tính tiện nghi, thuận lợi cho người lái, hành khách
và an toàn lao động. Trang bị điện là một hệ thống rất phức tạp nó có thể được phân ra hai hệ
thống là hệ thống nguồn điện và hệ thống các thiết bị tiêu thụ điện. Hệ thống nguồn điện dùng
tạo ra nguồn năng lượng điện để cung cấp cho các phụ tải (các thiết bị dùng điện). Hệ thống
các thiết bị phụ tải là tổ hợp của tất cả các thiết bị có trên ôtô máy kéo dùng năng lượng điện
như hệ thống đốt cháy, hệ thống khởi động, hệ thống chiếu sáng, tín hiệu, hệ thống điều khiển
bao gồm cả máy tính điện tử điều khiển động cơ và điều khiển thân xe cùng các rơle hay các
bộ phận chấp hành đi theo máy tính, do tính phức tạp của trang bị điện, nên phần này được
trình bày trong một tài liệu riêng.
+ Trang bị làm việc là tổ hợp của nhiều thiết bị, bộ phận giúp cho ôtô máy kéo và xe
chuyên dụng thực hiện các công việc một cách thuận tiện và đạt hiệu quả cao. Sau đây chúng
ta tìm hiểu đại cương về sự bố trí các bộ phận chính trên ôtô máy kéo.
1.3. Bố trí các bộ phận chính trên ôtô máy kéo
1.3.1. Bố trí động cơ trên ôtô máy kéo
Việc bố trí động cơ trên ôtô máy kéo phụ thuộc điều kiện làm việc và công dụng của
mỗi loại xe.
Đối với ôtô, thông thường động cơ có thể bố trí phía trước, ở giữa hoặc phía sau xe.
Bố trí động cơ phía trước có thể áp dụng cho mọi loại ôtô, đặt động cơ ở phía sau thường
dùng cho ôtô du lịch và ôtô buýt, còn đặt ở giữa buồng lái và thùng xe thường áp dụng cho
ôtô tải. Mỗi một phướng án lắp đặt động cơ, đều ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về sử dụng thể
tích chứa hàng hoặc hành khách và đến tính thuận tiện khi chăm sóc sửa chữa động cơ.
Nếu lắp động cơ ở phía trước và ngoài buồng lái thì thể tích chứa hàng hoăc bố trí số
ghế hành khách sẽ bị giảm đi khi ôtô có cùng chiều dài chung. Bố trí động cơ phía trước, khi
lái, người lái xe quan sát mặt đường không thuận lợi, tuy nhiên việc chăm sóc sửa chữa động
cơ sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn. Nếu lắp động cơ phía trước xe và trong buồng lái, khi đó hệ
số sử dụng chiều dài xe tăng lên, thể tích chứa hàng và hành khách lớn hơn, tuy nhiên việc
chăm sóc, sửa chữa động cơ gặp khó khăn hơn, vì vậy ở các loại xe mà động cơ bố trí phía
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 12
trước và trong buồng lái, buồng lái thường được thiết kế ở dạng lật được, khi đó cấu tạo
buồng lái phức tạp hơn.
Phương án lắp động cơ phía sau xe có ưu điểm làm cho hệ thống truyền lực đơn giản
hơn, người lái nhìn thoáng hơn, hệ số sử dụng chiều dài xe tăng lên, đồng thời hành khách
được cách nhiệt với động cơ tốt hơn. Kiểu bố trí này thường gặp ở các xe du lịch, xe ôtô buýt,
nhược điểm cơ bản của cách bố trí này là hệ thống điều khiển côn, số, ga phức tạp hơn do
động cơ bố trí xa người lái.
Khi lắp động cơ ở giữa xe, tức là bố trí giữa buồng lái và thùng xe thường áp dụng
trên các xe vận tải, kểu bố trí này có ưu điểm làm tải trọng phân bố đều giữa hai cầu chủ động
khi không có tải trọng hữu ích (xe chạy không tải).
Cách chọn sự phân bố động cơ ở phía trước hay phía sau trên một xe cụ thể cần quan
tâm đến hệ số phân bố tải trọng lên các cầu, đặc biệt là xe nhiều cầu chủ động để đảm bảo
khai thác tốt nhất khả năng kéo bám của các cầu chủ động.
Đối với máy kéo, do tính chất công việc mà máy kéo phải hoàn thành, người lái ngoài
việc phải quan sát phía trước xe, trong quá trình làm việc còn phải theo dõi sự làm việc của
các máy công tác thường mắc phía sau máy kéo, nên ở máy kéo buồng lái được bố trí ở phía
sau, chính vì vậy động cơ máy kéo thường được bố trí ở phía trước.
1.3.2. Bố trí hệ thống truyền lực
1.3.2.1. Bố trí hệ thống truyền lực trên ôtô
Hệ thống truyền lực và sơ đồ bố trí HTTL có ảnh hưởng đến kết cấu và bố trí chung
của ôtô.
Hình 1-6. Sơ đồ bố trí hệ thống truyền lực ôtô hai cầu với các công thức bánh
khác nhau:
Đ-Động cơ; L-Ly hợp; H-Hộp số; C-Cầu chủ động; CĐ-Trục cacđăng; P-Hộp số
phụ hay hộp phân phối; K-Khớp ma sát.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 13
Trên hình 1-6 giới thiệu sơ đồ hệ thống truyền lực dùng trên các loại ôtô có hai cầu
(hai trục) trong đó sử dụng công thức bánh 4X2 hoặc 4X4. Trong sơ đồ các bánh xe được in
nền đậm biểu diễn bánh chủ động, bánh xe không tô đậm là bánh bị động.
Đối với ôtô hai cầu có công thức bánh 4X2 (4 bánh xe trong đó có hai bánh chủ động),
thường dùng sơ đồ truyền thống như hình 1-6 a, ở đây động cơ được lắp phía trước xe và
truyền động cho hai bánh chủ động ở cầu sau.
Đối với ôtô du lịch hoặc ôtô buýt, để cách nhiệt cho hành khách và giảm tiếng ồn,
đồng thời cho người lái quan sát mặt đường tốt hơn, người ta thường bố trí cầu sau chủ động
và động cơ được lắp ở phía sau và truyền chuyển động cho cầu sau chủ động (hình 1-6 b).
Đối với sơ đồ 4X2 mà cầu trước vừa là chủ động vừa là cầu dẫn hướng, chúng ta
thường gặp động cơ lắp dọc ở cầu trước (hình 1-6 c) hoặc động cơ lắp ngang ở phía trước và
truyền động trực tiếp cho hai bánh chủ động ở cầu trước (hình 1-6 d), kết cấu này thường gặp
trên các xe du lịch (ôtô con), khi động cơ lắp ngang, người ta có thể sử dụng truyền lực chính
là các cặp bánh răng trụ, kết cấu hệ thống truyền lực được đơn giản và gọn nhẹ hơn.
Đối với ôtô ba cầu với công thức bánh 6X6 (6 bánh đều là chủ động) truyền động ra
các cầu chủ động phía sau có thể thực hiện bằng một trục truyền (hình 1-7 a) hoặc hai trục
truyền động (hình 1-7 b) nhờ truyền động cacđăng.
Ở ôtô bốn cầu chủ động (8X8) lại có các đặc điểm riêng biệt. Truyền động theo một
trục (hình 1-7 c) có ưu điểm là đơn giản về kết cấu, nhưng nhược điểm là sinh ra tải trọng phụ
lên hệ thống truyền lực bởi hiện tượng tuần hoàn công suất, do đó làm giảm hiệu suất, tăng độ
hao mòn các chi tiết máy, giảm tuổi thọ của xe nói chung.
Hình 1-7. Sơ đồ hệ hống truyền lực ôtô nhiều cầu với các bánh đều là chủ động:
Đ-Động cơ; L-Ly hợp; H-Hộp số; C-Cầu chủ động; CĐ-Trục cacđăng; P-Hộp số phụ
hay hộp phân phối.
Để tránh nhược điểm trên, ở các xe ba hay bốn cầu chủ động, người ta dùng các hộp
phân phối với vi sai cầu như trên hình 1-7 b, d. Trường hợp dùng ba vi sai giữa các cầu lắp
trong hộp phân phối P (hình 1-7 d), sẽ tránh hoàn toàn hiện tượng tuần hoàn công suất nhưng
kết cấu hệ thống truyền lực sẽ phức tạp hơn.
Đối với ôtô nhiều cầu chủ động, hiện nay người ta thường sử dụng hệ thống truyền lực
thủy tĩnh hoặc truyền động điện, khi đó môtơ thủy tĩnh hoặc động cơ điện được lắp ngay trên
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 14
các bánh xe chủ động và được gọi là “động cơ-bánh xe”, với sơ đồ như vậy hệ thống truyền
lực hợp lý hơn. Bơm thủy tĩnh hoặc máy phát điện được cung cấp cơ năng từ động cơ đốt
trong của ôtô máy kéo. Từ bơm thủy tĩnh hay máy phát điện người ta dùng ống nối hay dây
điện nối đến môtơ thủy tĩnh hay động cơ điện lắp trên các bánh chủ động. Sau đây chúng ta
xem xét một vài sơ đồ cụ thể của hệ thống truyền lực thông dụng dùng trên ôtô.
Trên hình 1-8 giới thiệu
sơ đồ hệ thống truyền lực của
ôtô tải một cầu chủ động
(4X2), đây là sơ đồ được ứng
dụng khá phổ biến trên hầu hết
các ôtô tải hạng nhẹ hiện nay.
Trên hình 1-9 là sơ đồ
hệ thống truyền lực của ôtô
vận tải hạng trung. Đặc điểm
của hệ thống truyền lực này là
người ta sử dụng ly hợp thủy
lực hoặc bộ biến đổi mômen
Hình 1-8. Sơ đồ hệ thống truyền lực của ôtô tải nhẹ:
quay 1 làm việc đồng thời với
1-Động cơ; 2-Ly hợp; 3-Hộp số; 4-Cacđăng; 5-Truyền
ly hợp ma sát 2. Hộp số được
lực chính; 6-Vi sai; 7-Bánh chủ động
bố trí ngay phía dưới buồng lái
để thuận tiện cho điều khiển.
Trong moayơ của bánh chủ động có lắp bộ truyền lực cuối cùng kiểu hành tinh 3, nhờ kết cấu
này gầm máy không bị nâng lên quá cao.
Trên ôtô nhiều cầu chủ
động (hạng nặng) người ta
thường sử dụng hộp phân phối
dạng vi sai giữa các cầu để
giảm tác hại của tuần hoàn
công suất, sơ đồ bố trí hệ thống
truyền lực của ôtô ba cầu chủ
động được giới thiệu trên hình
1-10. Đặc điểm của sơ đồ này
là có hộp số phụ 1, hộp số phụ
nhận mômen từ trục thứ cấp
hộp số chính truyền đến, từ
Hình 1-9. Hệ thống truyền lực ôtô tải hạng nặng:
hộp số phụ mômen được
1-Ly hợp thủy lực hoặc bộ biến mô; 2-Ly hợp ma sát;
truyền đến hộp phân phối
3-Truyền lực cuối cùng
chính 2, là một vi sai bánh
răng trụ không đối xứng, từ
đây mômen được phân thành hai mạch, một mạch đến cầu chủ động trước, còn một mạch đến
hộp phân phối phụ 3 để phân phối mômen cho cầu giữa và cầu sau, hộp phân phối 3 là vi sai
nón đối xứng, mômen được phân bố đều đến hai cầu giữa và cầu sau.
Giữa các bánh xe chủ động trên cùng một cầu chủ động đều bố trí truyền lực chính
(truyền lực trung tâm) bánh răng nón hay bánh răng trụ. Để bảo đảm các bánh xe quay với tốc
độ khác nhau khi vào vòng hay khi lăn trên mặt đường không bằng phẳng, giữa chúng đều bố
trí vi sai bánh răng nón.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 15
Trên đa số ôtô và máy kéo bánh nhiều cầu chủ động, khi có vi sai giữa các cầu và giữa
các bánh chủ động đều được trang bị bộ phận khóa vi sai nhằm giúp ôtô, máy kéo bánh vượt
khỏi vùng bị thiếu bám cục bộ của một bánh chủ động hay một cầu chủ động.
Hình 1-10. Sơ đồ bố trí hệ thống truyền lực ôtô ba cầu chủ động:
1- Hộp số phụ; 2-Hộp phân phối chính; 3-Hộp phân phối phụ; 4- Truyền lực
chính và vi sai giữa các bánh trên cầu trước, cầu giữa và cầu sau
1.3.2.2. Bố trí hệ thống truyền lực trên máy kéo
Ở máy kéo, như trình bày trên đây do người lái thường ngồi phía sau để quan sát sự
làm việc của các máy công tác đi theo máy kéo, nên khớp nối 2 thường được bố trí giữa ly
hợp 1 và hộp số 3, bố trí như vậy sẽ giúp cho hộp số máy kéo được đặt ngay phía dưới buồng
lái, nhờ đó cấu tạo cơ cấu điều khiển hộp số đơn giản và thuận tiện khi điều khiển. Ngoài ra vì
máy kéo cần lực kéo lớn, nên trong hệ thống truyền lực thường có truyền lực cuối cùng 6 để
làm tăng tỷ số truyền chung cho hệ thống truyền lực.
Trên hình 1-11 trình bày sơ đồ hệ thống truyền lực của máy kéo bánh bơm một, hai
cầu chủ động và máy kéo bánh xích.
Đối với máy kéo một cầu chủ động, thông thường người ta thiết kế cho cầu sau là cầu
chủ động, bởi vì đặc điểm làm việc của máy kéo là cần lực kéo lớn ở móc, do đó các chi tiết
của hệ thống truyền lực và của cầu sau có kích thước và khối lượng lớn, trọng lượng của máy
kéo thường phân bố lui về phía sau, bố trí như vậy làm tăng khả năng kéo bám của máy kéo.
Ngoài ra trong quá trình làm việc, lực cản của máy công tác còn có tác dụng làm tăng thêm
phản lực pháp tuyến tác động lên các bánh sau của máy kéo. Do đó khi bố trí cầu sau là cầu
chủ động sẽ làm tăng thêm một phần trọng lượng bám nghĩa là tăng thêm lực chủ động cho
máy kéo.
Để tăng khả năng kéo bám của máy kéo, người ta cũng chế tạo các máy kéo hai cầu
chủ động (hình 1-11 b). Khi đó trong hệ thống truyền lực của máy kéo thường có thêm hộp
phân phối hay hộp số phụ 9. Để tránh sinh ra tuần hoàn công suất khi tốc độ của hai cầu
không tương thích với nhau, trong hộp phân phối thường có lắp cơ cấu vi sai hoặc khớp ma
sát (khớp một chiều) tự động gài và ngắt cầu trước khi độ trượt quay của cầu chủ động sau lớn
hơn hoặc nhỏ hơn giá trị cho phép.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 16
Máy kéo hai cầu chủ động sử dụng có hiệu quả ở những vùng đất thiếu bám, đất độ
ẩm cao hay trong điều kiện đồi dốc, khi sử dụng hai cầu chủ động, máy kéo bánh thường có
đường kính các bánh trước và sau bằng nhau.
Đối với máy kéo bánh, mômen từ động cơ truyền qua ly hợp 1 đến khớp nối 2, qua
hộp số 3 tới truyền lực chính 4, hộp vi sai 5, tới hai bán trục làm quay cặp bánh răng truyền
lực cuối cùng 6 và cuối cùng làm quay bánh chủ động. Ở máy kéo hai cầu chủ động từ hộp số
3 một phần công suất của động cơ theo hộp phân phối 9 truyền tới truyền lực chính 11 của
cầu trước, qua hộp vi sai 12 tới bán trục và tới các cặp bánh răng nón của truyền lực cuối cùng
13 để làm quay các bánh xe chủ động của cầu trước.
Hình 1-11. Sơ đồ hệ thống truyền lực
của máy kéo bánh: a) Máy kéo bánh
cầu sau chủ động; b) Máy kéo bánh hai
cầu chủ động; c) Máy kéo xích;
1- Ly hợp; 2- Khớp nối; 3- Hộp số; 4,
11- Truyền lực chính; 5, 12- Vi sai; 6Truyền lực cuối cùng; 7- Bán trục; 8Cầu sau; 9- Hộp phân phối; 10- Truyền
lực cacđăng; 13-Bộ truyền bánh răng
nón; 14- Bộ phận chuyển hướng; 15Bánh sao chủ động; 16- Dải xích
Trên hình 1-11 c trình bày sơ đồ bố trí hệ thống truyền lực của máy kéo xích kiểu một
dòng công suất, khác với truyền lực của máy kéo bánh, ở máy kéo xích, sau truyền lực trung
tâm 4 là đến hai bộ phận chuyển hướng 14 của máy kéo xích, từ trục bị động của bộ phận
chuyển hướng, mômen được truyền đến truyền lực cuối cùng 6 rồi đến bánh sao chủ động 15,
bánh sao chủ động ăn khớp với mắt xích của dải xích và đẩy cho máy kéo dịch chuyển trên
đường ray vô tận do dải xích tạo nên.
Hiện nay trên một số máy kéo xích có công suất lớn dùng trong công nghiệp và các xe
chuyên dụng, hệ thống truyền lực của chúng thường dùng kiểu hai dòng công suất truyền từ
động cơ đến hai bánh sao chủ động của hai dải xích riêng biệt. Với sơ đồ hệ thống truyền lực
hai dòng công suất như vậy, sẽ làm cho truyền lực chính cũng như các chi tiết trong hộp số có
kích thước nhỏ gọn hơn vì chịu tải trọng thấp hơn. Điểm đặc biệt ở hệ thống truyền lực hai
dòng công suất là trong hộp số của máy kéo có hai trục thứ cấp, mỗi trục thứ cấp truyền
mômen cho một truyền lực chính riêng ở cầu chủ động và cho một bánh sao chủ động của
một bên dải xích.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình ô Tô máy kéo và Xe chuyên dụng ………………………….. 17