Chỉ số PSA – giá trị trong chẩn đoán và theo dõi sau điều trị ung thư tiền liệt tuyến

Related Articles

1. PSA là gì?

        PSA ( Prostate-Specifc Antigen ) là một glycoproteine có phân tử nhẹ và thường có trong tinh dịch. Nó lần tiên phong được phát hiện vào những năm 70 của thế kỷ trước, nhưng phải một thập kỷ sau mới được ứng dụng thoáng đãng trong niệu khoa lâm sàng. PSA thông thường có nồng độ rất thấp trong huyết tương ( ng / mL ). Theo 1 số ít nghiên cứu và điều tra của Nước Ta thì giá trị thông thường trong huyết tương là

PSA được tiết ra chủ yếu bởi các tế bào biểu mô ồng tuyến tiền liệt. Mặc dù là kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (TTL), PSA không phải là kháng nguyên đặc hiệu của ung thư TTL

2. PSA thay đổi trong các hoàn cảnh nào?

Nồng độ PSA tăng trong huyết tương có lẽ rằng là do sự phá vỡ cấu trúc tế bào của TTL Sự mất đi những rào cản tạo ra bởi lớp đáy và màng nền trong tuyến thông thường có lẽ rằng là nơi thoát ra của PSA rồi đổ vào máu. Điều này xảy ra trong bệnh cảnh những bệnh lý TTL như tăng sản lành tính ( BPH ), viêm hay ung thư TTL và những thao tác trên TTL như sờ nắn hay sinh thiết .

Chấn thương TTL như sau sinh thiết TTL hoàn toàn có thể làm phát tán PSA vào tuần hoàn mà yên cầu hơn 4 tuần để trở lại giá trị bắt đầu. Thăm khám TTL qua ngả trực tràng hoàn toàn có thể làm tăng PSA trong huyết tương, tuy nhiên không có ý nghĩa nhiều về mặt lâm sàng .

Các tế bào ung thư TTL không phải tạo ra nhiều PSA hơn những tế bào TTL thông thường. Nồng độ tăng trong huyết tương trong ung thư TTL có lẽ rằng là do sự tăng trưởng của tế bào ung thư và sự mất không thay đổi cấu trúc mô học của TTL. Khi không có ung thư TTL, nồng độ PSA trong huyết tương phụ thuộc vào vào tuổi, chủng tộc và thể tích TTL .

Các điều tra và nghiên cứu về tác động ảnh hưởng của xuất tính lên nồng độ PSA trong huyết tương đã cho thấy ở những bệnh nhân ≥ 50 tuổi thì xuất tinh làm tăng PSA trong huyết tương và sau 48 giờ thì PSA sẽ trở lại giá trị bắt đầu .

Điều trị những bệnh lý TTL ( BPH hay ung thư ) hoàn toàn có thể làm giảm nồng độ PSA trong huyết tương vì chúng làm giảm những tế bào biểu mô TTL sản xuất ra PSA cũng như lượng PSA sản xuất ra bởi mỗi tế bào. Điều trị nội tiết như phẫu thuật cắt tinh hoàn hay LHRH, thuốc ức chế 5 α – reductase, xạ trị và phẫu thuật điều trị ung thư TTL hay BPH tổng thể đều làm giảm nồng độ PSA trong huyết tương. Các thuốc ức chế 5 α – reductase điều trị BPH làm giảm 50 % nồng độ PSA trong huyết tương sau 6 tháng điều trị. thế cho nên cần phải nhân đôi giá trị PSA đo được để được giá trị thực ở những bệnh nhân BPH điều trị bằng 5 α – reductase ≥ 6 tháng. Những bệnh nhân BPH được điều trị bằng thuốc ức chế 5 α – reductase nên được đo nồng độ PSA bắt đầu trước khi điều trị và theo dõi liên tục PSA theo thời hạn. Nếu PSA không giảm khoảng chừng 50 % hay tăng lên khi đang điều trị bằng thuốc ức chế 5 α – reductase thì phải hoài nghi bệnh nhân bị ung thư TTL và cần sinh thiết TTL để xác định

Chính thế cho nên Khi đọc hiệu quả xét nghiệm PSA tất cả chúng ta phải luôn xem xét đến những bệnh lý TTL bệnh nhân đang mắc, những thủ pháp chẩn đoán trước đó và những điều trị bệnh lý TTL hiện có .

3. Giá trị của PSA trong tiên đoán ung thư tuyến tiền liệt

        Người ta thấy rằng:

        – PSA > 10

ng / ml giá trị tiên lượng đúng ung thư TTL là 80 %

        – PSA > 20

ng / ml giá trị tiên lượng đúng ung thư TTL là 90 %

Do vậy so với những người có chỉ số PSA >

10

ng / ml tất cả chúng ta cần sinh thiết TTL để xác định chẩn đoán. Đối với những bệnh nhân có chỉ số PSA từ 4 –

10

ng / ml thì có nên làm sinh thiết TTL hay không ? để xử lý yếu tố trên có 3 giải pháp để giúp ích đó là :

a. Đo tỷ suất PSA tự do / toàn phần ( % f PSA ) : giá trị để ứng dụng lâm sàng cũng khác nhau ở 1 số ít tác giả và nó biến hóa từ 15 % – 25 %. hiệu quả dưới giá trị này nên nghĩ đến ung thư và làm sinh thiết TTL .

        b. Đo tốc độ tăng của PSA ( PSA velocity): nếu sau mỗi năm PSA tăng đều trên 0,75

ng / ml, nên nghĩ đến ung thư và làm sinh thiết TTL .

c. Đo tỷ lệ PSA ( PSA density ) : là tỷ số PSA huyết tương chia cho khối lượng TTL được xác lập bằng siêu âm TTL qua ngả trực tràng. Mât độ PSA càng lớn thì năng lực ung thư TTL càng có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Trị số thông thường là

0,15

ng / gam bướu

PSA còn giúp tiên lượng mức độ tiến triển của ung thư

– PSA ng / ml : ung thư còn khu trú trong TTL

– PSA > 30

ng / ml : 80 % ung thư ở tiến trình T3

– PSA > 50

ng / ml : 80 % ung thư đã lan tới bọng tinh

– PSA > 100

ng / ml : 100 % có di căn xa

4. Giá trị của PSA trong theo dõi sau điều trị

        – Sau phẫu thuật cắt bỏ TTL toàn phần, PSA phải không được tìm thấy hay thấp hơn

0,05

ng / ml sau 21 ngày. Nếu PSA Open trở lại là có tín hiệu bướu tái phát.

– Sau điều trị nội tiết tố, nếu PSA trở lại thông thường sau 3 tháng đó là tín hiệu rất tốt. Khả năng sống trên 42 tháng .

– Sau điều trị tia xạ, PSA phải xuống dần đến mức rất thấp

1

ng / ml ( PSA giảm 50 % sau 6 tháng và điểm thấp nhất là sau 14-16 tháng )

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Getzenberg R.H., Partin A.W

.(2012), “Prostate Cancer Tumor Markers”, Campbell-Walsh Urology. – 10th ed, pp: 2748-62.

2.Hội tiết niệu- Thận học Việt Nam (2018), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư tiền liệt tuyến, NXB Y học, Hà Nội.

3. Nguyễn Đạo Thuấn (2017), “Ung thư tuyến tiền liệt”, Bài giảng SĐH, Đại học Y-Dược TP HCM.

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories