Biển Đông – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

” Nam Hải ” đổi hướng tới đây. Đối với những định nghĩa khác, xem Nam Hải ( khuynh hướng )Xin xem những mục từ có tên tương tự như tại Biển Đông ( khuynh hướng )

Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Vùng biển này và các quần đảo của nó là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa một vài quốc gia trong vùng.

Tên gọi

Cách gọi theo Nước Ta

Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đã ghi chép, đất nước ta phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam,…[1] Trong Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy Chú viết: 其地西接哀牢,東臨大海,南夾廣南,北連乂安。/ Kỳ địa tây tiếp Ai Lao, đông lâm đại hải, nam giáp Quảng Nam, bắc liên Nghệ An. / Đất [Đàng Trong phía tây tiếp giáp Ai Lao, phía đông [là] biển lớn, đoạn phía nam là Quảng Nam, phía bắc nối liền với Nghệ An.[2] Trong Bình Ngô đại cáo, Biển Đông được nhắc đến với tên gọi là Đông Hải (東 海). Nguyễn Trãi viết:

決東海之水不足以濯其污

罄南山之竹不足以書其惡

Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

— Bình Ngô đại cáo[3]

Sử gia Trần Trọng Kim ( 1919 ) từng chép lại lời Bà Triệu rằng :

Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng-kình ở bể đông, quét sạch bờ-cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối, chứ không thèm bắt-chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì-thiếp người ta.

— Việt Nam sử lược[4]

Thời Nhà Nguyễn, người Việt cũng vẫn gọi Biển Đông là bể Nam nhưng bằng chữ Nôm, với nghĩa là bể (biển) nước Nam, khác biệt với Nam Hải bằng chữ Hán theo cách viết văn tự chữ Hán (gọi theo người Trung Hoa). Trong cuốn Đại Nam Quốc sử Diễn ca (1870), viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát, đoạn An Dương Vương mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà có viết như sau (ở đây Bể NamNam Hải tương đương về vần luật và dấu thanh, nhưng Bể Nam được dùng mà không phải là Nam Hải):

…Kim qui đâu lại hiện linh,

Mới hay giặc ở bên mình không xa.

Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,

Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng.

(𣷭南)Bể Nam đến bước cùng đàng,

Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi…

— Đại Nam Quốc sử Diễn ca[5]

Cách gọi theo Tây phương

Tên gọi phổ biến nhất của biển này trong hầu hết các ngôn ngữ thường là “biển Nam Trung Hoa”, mang ý nghĩa là vùng biển nằm ở phía nam của đại lục địa Trung Quốc (South China Sea). Do tại Trung Quốc “Biển Đông” (Đông hải) được dùng để chỉ biển Hoa Đông nên cần chú ý phân biệt để tránh lẫn lộn hai khái niệm “Biển Đông” khác nhau này.

biển Đông Ấn (Il Mare dell’ Indie Orientali) (bản đồ năm Quốc tế đã từng gọi Biển Đông cùng với biển Andaman và eo Malacca là ( Il Mare dell ‘ Indie Orientali ) ( map năm 1750 ) .

Tên gọi quốc tế của Biển Đông ra đời từ nhiều thế kỷ trước, là biển Nam Trung Hoa (South China Sea) hay gọi tắt là biển Hoa Nam vì thời bấy giờ Trung Quốc là nước rộng lớn nhất, phát triển nhất trong khu vực và có giao thương với phương Tây qua con đường tơ lụa. Tên gọi nhiều biển, đại dương vốn căn cứ vào vị trí của chúng so với các vùng đất gần đó cho dễ tra cứu, không có ý nói về chủ quyền, cần tránh nhầm lẫn. Có thể kể ra các thí dụ là Ấn Độ Dương, là đại dương ở phía nam Ấn Độ, giáp nhiều nước ở châu Á và châu Phi, không phải là của riêng nước Ấn Độ; hay biển Nhật Bản, được bao quanh bởi Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Cách gọi theo Trung Quốc

Trải dài hàng nghìn năm Bắc thuộc – Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm, hầu hết bản đồ Trung Hoa vẽ về Việt Nam từ thế kỷ XV hoặc trước nữa cho tới đầu thế kỷ XX đều ghi biển cả phía đông Việt Nam là Giao Chỉ dương, nghĩa là biển Giao Chỉ.[cần dẫn nguồn]

Thời Hán và Nam Bắc triều, người Trung Quốc gọi biển này là “Trướng Hải” (Hán văn phồn thể: 漲海, Hán văn giản thể: 涨海), “Phí Hải” (Hán văn: 沸海), từ thời Đường dần dần đổi sang gọi là “Nam Hải” (南海). Hiện tại “Nam Hải” là tên gọi quan phương của biển này ở Trung Quốc. Từ thời cận đại, do tên gọi của biển này trong nhiều ngôn ngữ mang ý nghĩa là biển nằm ở phía nam Trung Quốc nên khi dịch sang Trung văn đã làm phát sinh thêm tên gọi “Nam Trung Quốc Hải” (giản thể: 南中国海, phồn thể: 南中國海) và “Trung Quốc Nam Hải” (phồn thể: 中國南海, giản thể: 中国南海).

Thất Châu Dương là vùng Biển Đông nằm giữa đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa ngày nay, ở phía đông nam đảo Hải Nam. Nam Dương là tên người Trung Quốc thế kỷ 19 gọi phần lớn Biển Đông, trừ Thất Châu Dương và vịnh Giao Chỉ (tức vịnh Quảng Nam hay vịnh Tonkin, hoặc vịnh Bắc Bộ).

Doanh hoàn chí lược.Tên gọi và vị trí những vùng Biển Đông người Trung Quốc gọi vào thế kỷ 19 ː Quảng Nam loan ( 廣南灣 ), Thất Châu Dương ( 七洲洋 ), Nam Dương ( 南洋 ), trong map Nam Dương tân hải những quốc, của sách

Cách gọi theo Philippines

Philippines gọi là biển Luzon (theo tên hòn đảo lớn Luzon của Philippines) hoặc biển Tây Philippines[6] (West Philippines Sea).

Cách gọi theo bán đảo Đông Dương

Theo một số tài liệu hàng hải, bản đồ cũ vùng biển này còn được gọi là Đông Dương Đại Hải (東洋大海), nghĩa là biển lớn cạnh bán đảo Đông Dương.

Cách gọi theo khu vực Khu vực Đông Nam Á

Trong bối cảnh tranh chấp căng thẳng về phân chia chủ quyền vùng biển, đã có quan điểm của một số học giả – sử gia đề xuất đổi tên biển thành “biển Đông Nam Á” (“Southeast Asia Sea”) hay biển Đông Nam châu Á (South East Asia Sea) – là một tên gọi trung lập. Tên gọi này bắt nguồn từ việc khu vực kinh tế Đông Nam Á đang là thị trường năng động đang đà phát triển; các nước khu vực Đông Nam Á bao bọc hầu như toàn bộ chu vi của “Biển Đông” với tổng chiều dài bờ biển vào khoảng 130.000 km trong khi đường bờ biển của các tỉnh duyên hải phía nam Trung Quốc chỉ vào khoảng 2.800 km.[cần dẫn nguồn]

Địa lý

Bản đồ Biển Đông

Giới hạn

Tổ chức Thủy văn học Quốc tế đề ra số lượng giới hạn của Biển Đông như sau : [ 7 ]

Biển nằm trên một thềm lục địa ngầm ; trong những kỷ băng hà gần đây nước biển đã hạ thấp xuống hàng trăm mét, và Borneo từng là một phần của lục địa châu Á .Các nước và chủ quyền lãnh thổ có biên giới với vùng biển này ( theo chiều kim đồng hồ đeo tay từ phía bắc ) gồm : đại lục Trung Quốc, Ma Cao, Hồng Kông, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Nước Singapore, xứ sở của những nụ cười thân thiện, Campuchia và Nước Ta .Nhiều con sông lớn chảy vào Biển Đông gồm những sông Châu Giang, Mân Giang, sông Cửu Long ( Phúc Kiến ), sông Hồng, sông Mê Kông, sông Rajang, sông Pahang và sông Pasig .

Địa danh trong Biển Đông

Vịnh Bắc Bộ là phần Biển Đông giữa miền Bắc Việt Nam với Đảo Hải Nam miền Nam Trung Quốc. Bờ phía tây là bờ biển Việt Nam từ Thanh Hóa đến Móng Cái. Phía bắc từ Móng Cái trở sang phía đông là 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Quốc với bán đảo Lôi Châu. Bờ đông là đảo Hải Nam của Trung Quốc. Trong vịnh có hàng nghìn đảo nhỏ, với các đảo trong vịnh Hạ Long được UNESCO xếp loại là di sản thiên nhiên thế giới. Đảo Bạch Long Vĩ thuộc Việt Nam ở giữa vịnh, có diện tích khoảng 2,5 km².

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông đã được nhiều chính quyền sở tại Nước Ta liên tục thực thi chủ quyền lãnh thổ từ nhiều thế kỷ qua. Quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc dùng vũ lực chiếm giữ một phần từ năm 1956 và chiếm giữ trọn vẹn từ năm 1974. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, một phần hay hàng loạt, cũng đã diễn ra tại quần đảo Trường Sa giữa Nước Ta, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan .Những nguyên do chính để những nước tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo trên là :

  • Diện tích lãnh hải với đặc quyền kinh tế và việc triển khai quốc phòng.
  • Biển Đông nằm trên một trong những đường giao thông hàng hải lớn trên thế giới, có nguồn thủy sản và tiềm năng dầu khí.

Hiện nay sự tranh chấp đang được những bên thương lượng đàm phán vì sự tự do và không thay đổi trong khu vực để tăng trưởng kinh tế tài chính .

Các hòn đảo và đá ngầm

Phía đông bắc Biển Đông có quần đảo Đông Sa (Pratas Islands) hiện do Đài Loan quản lý nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền.

Phía tây-bắc Biển Đông cách hòn đảo Lý Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi, Nước Ta khoảng chừng 200 km, cách hòn đảo Hải Nam, Trung Quốc 235 km có quần đảo Hoàng Sa với 18 hòn đảo, cồn cát và 22 đá, bãi ( theo giáo sư Sơn Hồng Đức, thì có đến 230 hòn đảo, cồn, đá, bãi ). Phú Lâm là hòn đảo lớn nhất. Độ cao tuyệt đối lớn nhất là 14 m, đo được tại một điểm trên hòn đảo Đá. Quần đảo này hiện đang nằm dưới sự trấn áp của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc ( Trung Quốc ) nhưng Nước Ta và Đài Loan cũng công bố chủ quyền lãnh thổ .Phía đông quần đảo Hoàng Sa có những bãi và núi ngầm như bãi ngầm Macclesfield, núi ngầm Stewart, bãi ngầm / cạn Truro và bãi cạn Scarborough .

  • Bãi cạn Scarborough: nằm về phía đông của bãi Macclesfield, gần bờ biển Philippines. Đây là một bãi san hô sâu khoảng 15 m.
  • Bãi ngầm Truro: nằm về phía đông bãi cạn Scarborough, sâu 18,2 m.
  • Núi ngầm Stewart: sâu tối thiểu 447 m, nằm rất gần đảo Luzon của Philippines.

Bên trong vùng biển, có hơn 200 hòn đảo và bãi đá ngầm đã được đặt tên, đa phần chúng thuộc quần đảo Trường Sa. Quần đảo Trường Sa trải dài trên một vùng rộng 810 km, dài 900 km với khoảng chừng 175 thực thể địa lý đã được xác lập ; hòn hòn đảo lớn nhất là hòn đảo Ba Bình với chỉ hơn 1,36 km chiều dài và điểm trên cao nhất là 3,8 mét .

Có một núi ngầm rộng 100 km được gọi là bãi Cỏ Rong (tên tiếng Anh: Reed Bank), nằm ở đông bắc quần đảo Trường Sa, cách biệt khỏi đảo Palawan của Philippines bởi máng biển Palawan. Hiện bãi Cỏ Rong nằm sâu 20 m dưới mực nước biển, song trước kia nó từng là một vùng đất nổi trước khi bị nước biển nhấn chìm vào cuối thời băng hà.[cần dẫn nguồn]

Địa chất

Biển Đông được hình thành từ thế Oligocen muộn đến thế Miocen sớm ( 32-17 triệu năm trước ) bằng chính sách tách giãn đáy đại dương, liên tục tăng trưởng như một biển rìa trong suốt đại Kainozoi ( đại Tân Sinh ) muộn. Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách thành tạo Biển Đông. [ 8 ]

Tài nguyên vạn vật thiên nhiên

Đây là một vùng biển có ý nghĩa địa lý chính trị vô cùng quan trọng. Nó là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, trong khi nếu tính theo tổng lượng hàng hóa thương mại chuyển qua hàng năm, hơn 50% đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda và eo biển Lombok. Hơn 1,6 triệu m³ (10 triệu thùng) dầu thô được chuyển qua eo biển Malacca hàng ngày, nơi thường xảy ra các vụ hải tặc, nhưng hiện đã giảm nhiều so với giữa thế kỷ XX.

Vùng này đã được xác lập có trữ lượng dầu mỏ khoảng chừng 1,2 km³ ( 7,7 tỷ thùng ), với ước tính tổng khối lượng là 4.5 km³ ( 28 tỷ thùng ). Trữ lượng khí tự nhiên được ước tính khoảng chừng 7.500 km³ .Theo những nghiên cứu và điều tra do Sở môi trường tự nhiên và những nguồn lợi tự nhiên Philippines, vùng biển này chiếm một phần ba hàng loạt đa dạng sinh học biển quốc tế, thế cho nên nó là vùng rất quan trọng so với hệ sinh thái .

Tranh chấp biển

Biển Đông, những khu vực và tài nguyên tranh chấp giữa những nước .Có rất nhiều tranh cãi về lãnh hải trên vùng Biển Đông và những nguồn tài nguyên của nó. Bởi Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc cho phép những nước có vùng độc quyền kinh tế tài chính ( EEZ ) lan rộng ra 200 hải lý ( 370,6 km ) từ lãnh hải của họ, tổng thể những nước quanh vùng biển hoàn toàn có thể đưa ra công bố chủ quyền lãnh thổ với những phần to lớn của nó. Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa đã công bố chủ quyền lãnh thổ phần nhiều hàng loạt vùng biển. Những báo cáo giải trình gần đây cho thấy Trung Quốc đang tăng trưởng một nhóm tàu trường bay để bảo vệ những đường luân chuyển nguyên vật liệu ở Biển Đông. Những vùng có rủi ro tiềm ẩn tranh chấp gồm :

Cả Trung Quốc và Nước Ta đều theo đuổi những công bố chủ quyền lãnh thổ một cách can đảm và mạnh mẽ. Các nước tranh chấp tiếp tục thông tin về những vụ va chạm giữa những tàu thủy quân .

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nói chung và Trung Quốc nói riêng luôn muốn đảm bảo rằng những tranh chấp bên trong Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột quân sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung (Joint Development Authorities) đã được lập ra tại các vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng và phân chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không giải quyết vấn đề chủ quyền của vùng đó. Điều này đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đã tuyên bố sẽ không ngại dùng vũ lực để chiếm đoạt quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc tăng cường tái tạo những hòn đảo và bãi đá tự nhiên, thiết kế xây dựng những khu quân sự chiến lược. Đặc biệt là việc thiết kế xây dựng những đường băng, càng tăng cường thêm mưu đồ chiếm trọn Biển Đông, triển khai yêu sách ” đường 10 đoạn ” ( vốn không được vương quốc hay tổ chức triển khai nào công nhận ). Những công bố chủ quyền lãnh thổ chồng lấn ở Pulau Pedra Branca hay Pulau Batu Putih của cả Nước Singapore và Malaysia đã được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế. Tòa án phán quyết theo khunh hướng có lợi cho Nước Singapore .

Xem thêm

Tham khảo

Chú thích

Đọc thêm

Liên kết ngoài

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories