Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản không thiếu của tài liệu tại đây ( 14.67 MB, 132 trang )
45
hợp những gì đã học, đặt vấn đề…” [306]. Để làm rõ hơn bản chất việc ghi NKĐS,
Taffy E.Raphael cũng nhấn mạnh: “Nhật kí cũng có thể được thảo luận về những
điều mà nó không có. Nhật kí không phải là nơi để nó luyện tập ngữ pháp, chính tả
hay cấu trúc câu. Đó không phải là nơi để học sinh hoàn thành câu theo mức chuẩn
xác và ôn lại một số lượng lớn kiến thức. Nó không phải tuân theo một hình thức cố
định hoặc có một cách viết chuẩn mực nào”. [307]
Như vậy, NKĐS là hình thức ghi chép về văn bản đã đọc. HS viết ra hoặc vẽ
ra những suy nghĩ, tưởng tượng, nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, cốt
truyện nghệ thuật, từ ngữ của văn bản. Nó phù hợp với quan điểm hiện đại về dạy
Ngữ văn – chú trọng quá trình nhận thức và quá trình tương tác mang tính xã hội.
Để vận dụng hiệu quả NKĐS vào việc dạy đọc hiểu văn bản văn chương, Taffy
E.Raphael đã đề ra những hướng dẫn ghi NKĐS cụ thể.
46
Chuẩn bị cho thảo luận: Những việc tôi cần thực hiện với nhật kí đọc sách
HÌNH ẢNH
QUAN ĐIỂM
TỪ HAY
Mỗi khi đọc, tôi phải lưu
giữ một hình ảnh trong
đầu về câu chuyện. Tôi có
thể vẽ nó ra trong nhật kí
đọc sách và chia sẽ với
các bạn trong nhóm. Khi
vẽ hình, tôi cần chú thích
để ghi nhớ hình ảnh đó từ
đâu đến, điều gì làm tôi
nghĩ ra nó, và tại sao tôi
muốn vẽ hình ảnh đó.
Đôi khi đọc về một nhân vật,
tôi nghĩ tác giả đã không xem
xét các quan điểm hay ý kiến
nào đó. Trong nhật kí, tôi có
thể viết ra quan điểm của nhân
vật mà tác giả không đề cập
tới.
Tìm ra những từ thực hay – các
từ mới, ngộ nghĩnh, có khả
năng miêu tả cao mà tôi muốn
sử dụng khi viết; các từ dễ
nhầm lẫn… Viết ra và chia sẻ
trong nhóm. Tôi cũng ghi chú lí
do chọn những từ này và số
trang chúng xuất hiện để dễ tìm
lại chúng.
HỒ SƠ NHÂN VẬT
Nghĩ về một nhân vật yêu
thích (hoặc không thích,
hoặc lí thú). Vẽ sơ đồ thể
hiện cách thức tôi nghĩ:
về hình dáng, hành động,
cách cư xử, điểm thú vị
hay nổi bật của nhân vật
đó.
NGHỆ THUẬT VÀ
THỦ PHÁP ĐẶC
BIỆT CỦA TÁC GIẢ
Đôi khi tác giả sử dụng
những từ ngữ đặc biệt,
khắc họa rõ nét chúng
trong đầu người đọc, làm
tôi ước viết được như vậy,
dùng ngôn ngữ vui nhộn,
viết những cuộc đối thoại
thực hay… Trong nhật kí
đọc sách, tôi sẽ ghi lại các
ví dụ về những điều đặc
biệt như thế mà tác giả đã
dùng trong truyện.
BẢN THÂN VÀ TRUYỆN
Đôi lúc những gì đọc được về
nhân vật hay sự kiện nào đó
khiến tôi nghĩ về cuộc sống cá
nhân mình. Tôi sẽ viết trong
nhật kí và kể lại cho các bạn
về việc nhân vật, sự kiện hay ý
tưởng nào đó đã làm cho tôi
suy nghĩ về cuộc đời của mình.
ĐIỂM SÁCH / PHÊ BÌNH
Khi đọc đôi lúc tôi tự nghĩ:
“Hoàn toàn TUYỆT VỜI!!!”
Có lúc tôi nghĩ: “ Nếu là tác
giả, tôi sẽ viết khác hơn”. Tôi sẽ
ghi ra những điểm hay của tác
giả và những nhược điểm cần
khắc phục.
TRÌNH TỰ SỰ KIỆN
Đôi khi trật tự các sự kiện
trong truyện tỏ ra dáng ghi
nhớ. Tôi có thể vẽ một sơ đồ
chuỗi các hành động và giải
thích vì sao trật tự đó đáng
nhớ.
PHẦN ĐẶC SẮC CỦA
TRUYỆN
Tôi sẽ ghi lại số trang để nhớ
đâu là đoạn đặc sắc của câu
chuyện. Ghi các từ mở đầu, và
các từ kết thúc của đoạn này
để gợi nhớ và chia sẽ trong
nhóm. Sau đó, viết giải thích
tại sao tôi cho rằng đoạn đó
thú vị và đặc biệt.
GIẢI THÍCH
Khi đọc, tôi suy nghĩ xem tác
giả muốn nói với tôi điều gì,
muốn tôi ghi nhớ điều gì qua
câu chuyện. Tôi có thể viết ra
cách giải thích của mình trong
nhật kí và chia sẻ với các bạn
những suy nghĩ đó. Tôi cần
lắng nghe cách giải thích của
các bạn khác để so sánh các
điểm giống nhau, tương tự, và
khác nhau.
Tóm lại, NKĐS và những hoạt động viết liên quan đóng vai trò khuyến khích
47
học sinh tương tác với tác phẩm để xây dựng ý nghĩa của văn bản, giải thích và bày
tỏ những phản ứng cá nhân, tăng cường các hoạt động tư duy liên quan đến phát
triển khả năng của học sinh trong vai trò người đọc, người viết. Trong khi viết
NKĐS, học sinh có cơ hội tham gia vào các mô hình tư duy khác nhau để phát triển
khả năng đọc, viết. Trong NKĐS có những trang trắng để học sinh thể hiện những ý
tưởng bằng những bức tranh, mạch cảm xúc, sơ đồ, lược đồ và những trang có hàng
kẻ được sử dụng để viết những suy nghĩ của học sinh về các yếu tố của tác phẩm
như cách dùng từ ngữ độc đáo của tác giả, những đoạn thơ hay, thú vị…Học sinh
được khuyến khích sử dụng NKĐS trong những hoạt động do giáo viên yêu cầu hay
do chính các em lựa chọn.
2.3 Mục đích sử dụng Nhật kí đọc sách
NKĐS đóng vai trò nổi bật trong việc phát triển khả năng đọc viết cho học
sinh. Với hình thức ghi NKĐS, học sinh phải thường xuyên viết những cảm xúc,
suy nghĩ, nghi vấn, phản ánh và đánh giá những gì đọc được. Trong dạy học văn,
GV có trách nhiệm rèn luyện một cách toàn diện cho HS các kỹ năng thực hành văn
học (đọc văn, cảm thụ văn, phân tích và đánh giá tác phẩm văn chương…) mới phát
huy được vai trò chủ thể và tính tích cực, sáng tạo của HS trong quá trình chiếm
lĩnh văn chương. Để học sinh sử dụng NKĐS như một công cụ học tập, giáo viên
cần cho học sinh hiểu rõ mục đích, hình thức và nội dung của các loại nhật kí.
NKĐS là một trong những thành phần quan trọng của một chương trình dạy đọc,
viết theo quan điểm xây dựng kiến thức. Quan điểm này dựa trên ba giả thuyết:
[74,70].
Thứ nhất, qua ngôn ngữ lời nói, GV và HS xây dựng kiến thức. Do vậy ngôn
ngữ và khả năng đọc viết là nền tảng cho sự phát triển của HS. Thông qua ngôn ngữ
những người tham dự sẽ cùng nhau tạo ra kiến thức. Các học giả theo quan điểm
xây dựng kiến thức nhấn mạnh vai trò ngôn ngữ như là nền tảng tư duy, giải quyết
vấn đề và học tập (Barner, 1986, 1992; Well & Chang-Well, 1992; Wersch, 1985).
Vygostsky, nhà tâm lí học phát triển hàng đầu của thế kỷ này và là người sáng lập
ra lí thuyết lịch sử xã hội (1986) nhấn mạnh rằng ngôn ngữ cung cấp phương tiện
cần thiết cho người học tư duy và phương tiện này được người hiểu biết hơn sử
48
dụng để giải quyết các vấn đề cho người học. Do đó, ngôn ngữ là phương tiện tư
duy cũng là phương tiện cho hoạt động học tập. Nếu kiến thức được xây dựng giữa
cá nhân trong môi trường văn hóa – xã hội, thì lớp học là một cộng đồng trong đó
học sinh khám phá những ý tưởng mới, phát triển các cách tư duy mới và xây dựng
kiến thức qua sự tương tác với các thành viên khác. Giả thuyết này cũng có liên
quan đến phương pháp đọc hiểu. Kiến thức được xây dựng thông qua tương tác của
cá nhân trong môi trường văn hóa – xã hội. Đọc hiểu văn bản diễn ra trong những
hoàn cảnh khác nhau và những hoàn cảnh này ảnh hưởng trực tiếp đến cách người
ta đọc và giải thích văn bản. Từ quan điểm thứ nhất ta thấy mục đích sử dụng
NKĐS trước tiên là nhằm phát huy khả năng tự hình thành kiến thức và rèn luyện
khả năng tự cảm thụ cho HS.
Thứ hai, đọc và viết phản ánh những “tiến trình nhận thức cấp cao” để phân
biệt cái được đọc qua việc ứng dụng chúng một cách có ý nghĩa trong những tình
huống khác nhau trong lớp học cũng như ngoài xa hội. Vygotsky gọi đọc viết là
“tiến trình tâm lí cao cấp” để phân biệt cái được đọc qua sự tương tác với người
khác với tiến trình sinh học – những tiến trình phát triển không cần sự hòa giải xã
hội. Các tiến trình tâm lí cao cấp như đọc và viết bao gồm kiến thức về chiến lược,
về văn bản, và về thể loại, mục đích của hoạt động viết. Những hoạt động tư duy
cấp cao như đọc và viết, về bản chất vừa có tính xã hội vừa có tính văn hóa. Sự ảnh
hưởng của yếu tố văn hóa xã hội đối với việc tiếp cận văn bản là hiển nhiên. Một
trong những chức năng của NKĐS được sử dụng như phần cốt lõi của chương trình
dạy đọc viết là giúp học sinh rèn kĩ năng đọc hiểu. Những nghiên cứu về NKĐS cho
thấy rằng, việc dạy học sinh cách tư duy thông qua các tác phẩm đã đọc có thể trở
thành sân chơi để rèn luyện phương pháp học tập qua những văn bản có thực để xây
dựng nghĩa. Song những phản hồi của học sinh có tiềm năng hơn là chỉ đơn thuần
tìm hiểu bài đọc. Một môi trường giảng dạy khuyến khích việc sử dụng NKĐS ở
phạm vi rộng hơn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho học sinh. Khi ấy, học sinh sẽ có cơ
hội thể hiện những phản hồi mang tính đánh giá và cá nhân. Đọc viết là những kỹ
năng mà học sinh phải học. Từ quan điểm thứ hai ta có thể nhận ra rằng NKĐS rèn
luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh.