Xe máy – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Xe máy (còn gọi là mô tô hay xe hai bánh, xe gắn máy, phiên âm từ tiếng Pháp: Motocyclette) là loại xe có hai bánh theo chiều trước-sau và chuyển động nhờ động cơ gắn trên nó. Xe ổn định khi chuyển động nhờ lực hồi chuyển con quay khi chạy. Thông thường, người lái xe điều khiển xe bằng tay lái nối liền với trục bánh trước. Xe hai bánh do hai người Đức là Gottlieb Daimler và Wilhelm Maybach ở Bad Cannstatt (một địa danh thuộc Stuttgart) phát minh năm 1885[1].

Có nhiều loại xe hai bánh: xe chạy mọi địa hình (off-road), xe chạy trên đường thường (streetbike), xe đa dụng… Một vài loại xe có gắn thùng bên cạnh để chở người hoặc hàng và có 3 bánh gọi là xe ba bánh hay xe sidecar. Tại Việt Nam, để điều khiển xe máy nói riêng và xe cơ giới nói chung người điều khiển cần phải có giấy phép lái xe, ngoài ra tại Việt Nam, xe máy còn được gọi lóng là ngựa sắt.

Bên cạnh xe hơi, những chiếc xe máy cũng là một trong những phương tiện đi lại chuyển dời rất phổ cập lúc bấy giờ. Thậm chí ở một số ít vương quốc, số lượng xe gắn máy còn tiêu biểu vượt trội hơn rất nhiều so với những loại xe xe hơi và phương tiện đi lại công công, Nước Ta cũng là một trong số những vương quốc như vậy. Bên cạnh những ưu điểm như sử dụng tiện nghi, tinh chỉnh và điều khiển thuận tiện, tương thích với nhiều loại địa hình và đường xá, những chiếc xe máy còn có giá tiền rẻ hơn cũng như mức tiêu thụ nguyên vật liệu thấp hơn khá nhiều so với xe hơi .

Các loại xe gắn máy hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]

Xe máy có thể được phân loại theo kiểu hộp số (hộp số tay và hộp số tự động), mục đích sử dụng (đa năng, đường trường, địa hình…), hình dáng (sườn cao và sườn thấp).

  • Xe sườn thấp: hay còn gọi là Mô tô sườn đầm hoặc xe nữ, có đặc điểm là sườn giữa được làm thấp xuống, bình xăng nhiên liệu được đưa xuống dưới yên. Loại xe này phù hợp với nữ giới để tiện bước lên xuống xe và có phân khối nhỏ từ 49 đến dưới 170 phân khối. Được định nghĩa theo giấy tờ đăng ký tại một số quốc gia như Việt Nam là xe nữ – underbone.
  • Xe sườn cao: hay còn gọi là Mô-tô, có đặc điểm là sườn xe cao ngang với yên hoặc cao hơn, sườn giữa thường là nơi chứa nhiên liệu. Lạo xe này thường có thiết kế hầm hố và có dung tích xi lanh lớn nhằm phù hợp với khích thước và trọng lượng của xe, ngoài ra còn do thị hiếu về dòng xe phân khối lớn của nam giới. Loại xe này rất phổ biến ở các nước phát triển như Mỹ, Cannada và các nước châu Âu. Tại các nước đang phát triển thì đã có sự phát triển rõ rệt vì thị hiếu và do thu nhập người dân tăng lên đáng kế. Cũng cần phải biết là loại xe sườn cao này thường là có giá bán khá cao. Chiếc moto có dung tích xi lanh và tốc độ lớn nhất hiện này là chiếc Dodge Tomahawk với dung tích xi lanh là 8,7 lít, sức mạnh đạt 500 mã lực có khả năng tăng tốc 0–100 km/h chỉ trong 2,3 giây và đạt vận tốc tối đa lên tới 560 km/h
  • Xe số tay: Một biến thể của xe nữ có kiểu dáng giống như xe tay ga, với phần yếm xe rất thấp hoặc không có, lòng xe rộng. Chuyên chạy trong đô thị với kiểu dáng đẹp, tiện lợi, ưu tiên hình thức và không quan trọng động cơ. Việc chuyển số được thực hiện bằng tay số (thường nối với hộp số bằng dây cáp), không phải bằng chân như các loại xe máy động cơ nhiệt khác, vì vậy dưới chân chỉ có cần đạp phanh chứ không có cần số.
  • Xe tay ga: loại động cơ đặc biệt sử dụng hộp số vô cấp, không cần chuyển số, chỉ cần tay ga là có thể hoạt động được. Có thể tiêu thụ nhiên liệu nhiệt hoặc điện.
  • Xe máy điện:xe chạy bằng điện từ cục pin gắn kèm với xe!

Tuy nhiên, kiểu phân loại thông dụng nhất là dựa trên đặc thù, cấu trúc và hiệu quả của chiếc xe. Chúng ta có xe máy thông dụng thường thấy ở Nước Ta là kiểu xe Underbone và Scooter. Trong đó, Underbone là dòng xe số, như Wave, Future, Sirius, Exciter … Đặc điểm chính của loại xe này là động cơ đặt bên dưới khung xe, bình xăng ở dưới yên. Với phong cách thiết kế này, trọng tâm xe lùi về sau hoặc ở giữa, phần đầu xe nhẹ nhàng .

Phân loại theo pháp lý[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ năm 2016, gọi tắt là quy chuẩn 41, điều 3 giải thích từ ngữ, mục 3.39 và 3.40 ghi rõ:

:3.39. Xe môtô (hay còn gọi là xe máy) là xe cơ giới hai hoặc ba bánh và các loại xe tương tự, di chuyển bằng động cơ có dung tích xy lanh từ 50 cm3 trở lên, tải trọng bản thân xe không quá 400 kg đối với xe máy 2 bánh hoặc khối lượng chuyên chở cho phép xác định theo Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ từ 350 kg đến 500 kg đối với xe máy 3 bánh. Khái niệm này không bao gồm xe gắn máy nêu tại Khoản 3.40 quy định tại Điều này.

: 3.40. Xe gắn máy là chỉ phương tiện chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h. Nếu dẫn động là động cơ nhiệt thì dung tích làm việc hoặc dung tích tương đương không được lớn hơn 50 cm3.[2][3]

Khoản 20, điều 3, luật Giao thông đường bộ 2008 cũng quy định: Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ.[4]

Theo quy định của Bộ Giao thông vận tải Việt Nam, muốn lái xe gắn máy bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Tùy theo dòng xe máy mà người lái phải thi giấy phép lái xe các hạng A1, A2, A3, A4 sao cho phù hợp

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories