HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN VIỆT NAM
Chuẩn mực kiểm toán số 320: Mức trọng yếu trong
lập kế hoạch và thực hiện kiểm
toán
(Ban hành kèm theo Thông
tư số 214/2012/TT-BTC
ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính)
I / QUY ĐỊNH CHUNG
Phạm vi áp dụng
01. Chuẩn mực kiểm toán này quy định
và hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán viên và
doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi là “kiểm toán viên”) trong
việc áp dụng khái niệm “mức trọng yếu” trong lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm
toán báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450 hướng dẫn cách áp dụng
mức trọng yếu trong việc đánh giá ảnh hưởng của các sai sót được phát hiện đối
với cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh
(nếu có) đối với báo cáo tài chính.
Mức trọng yếu trong kiểm toán
02. Các khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính đã quy định và hướng dẫn về
khái niệm mức trọng yếu trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Mặc dù
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo
tài chính có đề cập đến khái niệm mức trọng yếu theo các thuật ngữ khác nhau,
nhưng nhìn chung, mức trọng yếu được hiểu như sau:
– Những sai sót, bao gồm cả việc
bỏ sót, được coi là trọng yếu nếu những sai sót này, khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại, được xem xét ở mức độ
hợp lý, có thể gây ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo
tài chính;
– Những xét đoán về mức trọng
yếu được thực hiện trong từng trường hợp cụ thể và bị ảnh hưởng bởi quy mô hay
bản chất của sai sót, hoặc được tổng
hợp của cả hai yếu tố trên;
– Những xét đoán về các vấn đề trọng yếu đối với người sử
dụng báo cáo tài chính phải dựa trên việc xem xét các nhu cầu chung về thông
tin tài chính của nhóm người sử dụng, như các nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ,… Những ảnh
hưởng có thể có của các sai sót đến một số ít người sử dụng thông tin trên báo
cáo tài chính mà nhu cầu của họ có nhiều khác biệt so với phần lớn những người
sử dụng thông tin trên báo cáo tài
chính sẽ không được xét đến.
03. Các khái niệm về mức trọng yếu, nếu quy định
trong khuôn khổ về lập và trình bày
báo cáo tài chính, sẽ là cơ sở cho kiểm toán viên xác định mức trọng yếu của cuộc
kiểm toán. Nếu khuôn khổ về lập và
trình bày báo cáo tài chính không đưa ra khái niệm về mức trọng yếu, các đặc
tính được nêu trong đoạn 02 Chuẩn mực này sẽ giúp kiểm toán viên có cơ sở để
xác định mức trọng yếu.
04. Việc xác định mức trọng yếu của kiểm toán
viên mang tính xét đoán chuyên môn và phụ thuộc vào nhận thức của kiểm toán
viên về nhu cầu của người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính. Trong trường
hợp này, kiểm toán viên có thể giả định rằng, người sử dụng báo cáo tài chính:
(a) Có sự hiểu biết hợp lý về hoạt động kinh doanh, về kinh tế và
tài chính, kế toán và quan tâm nghiên cứu thông tin trên báo cáo tài chính với
sự cẩn trọng một cách hợp lý;
(b) Hiểu rằng báo cáo tài chính được lập, trình bày và được kiểm toán
trên cơ sở mức trọng yếu;
(c) Nhận thức được tính không chắc chắn tiềm tàng trong việc xác định
giá trị do việc sử dụng các ước tính kế toán, các xét đoán và yếu tố của các sự
kiện xảy ra trong tương lai;
(d) Đưa ra các quyết định kinh tế hợp lý trên cơ sở các thông tin trên
báo cáo tài chính.
05. Kiểm toán viên phải áp dụng khái niệm mức trọng
yếu cả khi lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện cuộc kiểm toán, khi đánh giá ảnh
hưởng của các sai sót đã phát hiện trong quá trình kiểm toán, kể cả ảnh hưởng của
những sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) đối với báo cáo tài chính và khi
hình thành ý kiến kiểm toán (xem hướng dẫn tại đoạn A1 Chuẩn mực này).
06. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên
đưa ra các xét đoán về quy mô của các sai sót sẽ được coi là trọng yếu. Các xét
đoán này cung cấp cơ sở cho việc:
(a) Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của
các thủ tục đánh giá rủi ro;
(b) Nhận biết và đánh giá các rủi ro có sai sót
trọng yếu;
(c) Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của
các thủ tục kiểm toán tiếp theo.
Khi
lập kế hoạch kiểm toán, mức trọng yếu được xác định không nhất thiết phải là mức
giá trị mà dưới mức đó, các sai sót không được điều chỉnh, khi xét riêng lẻ hoặc
tổng hợp lại, luôn được đánh giá là không trọng yếu. Trong một số trường hợp cụ
thể, sai sót có thể được đánh giá là trọng yếu mặc dù giá trị của sai sót đó thấp
hơn mức trọng yếu. Mặc dù khó có thể thiết lập được các thủ tục kiểm toán để
phát hiện các sai sót riêng lẻ có tính trọng yếu do bản chất của sai sót nhưng
khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh đối với báo cáo
tài chính, kiểm toán viên phải xem xét đồng thời cả quy mô và bản chất của sai
sót cũng như tình huống cụ thể xảy ra các sai sót đó (xem hướng dẫn tại đoạn
A16 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450).
07. Kiểm
toán viên và doanh nghiệp kiểm toán phải tuân thủ các quy định của Chuẩn mực
này trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Đơn vị được kiểm toán (khách hàng) phải có những hiểu biết nhất định về
Chuẩn mực này để phối hợp công việc và xử lý các mối quan hệ liên quan đến việc
xác định mức trọng yếu của các thông tin đã được kiểm toán.
Mục tiêu
08. Mục tiêu của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán là áp dụng
khái niệm mức trọng yếu một cách phù hợp khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm
toán.
09.
Trong các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, các thuật ngữ dưới đây được hiểu
như sau:
(a) Trọng yếu: Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông
tin (một số liệu kế toán) trong báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng
yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin
đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính;
(b) Mức trọng yếu: Là một mức giá trị do kiểm toán viên xác định tùy thuộc
vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay sai sót được đánh giá trong
hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải
là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải được
xem xét cả trên phương diện định lượng và định tính;
(c) Mức trọng yếu thực hiện: Là
một mức giá trị hoặc các mức giá trị do kiểm toán viên xác định ở mức thấp hơn
mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính nhằm giảm khả năng sai sót tới
một mức độ thấp hợp lý để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh
và không được phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo
tài chính. Trong một số trường hợp, “mức trọng yếu thực hiện” có thể hiểu là mức
giá trị hoặc các mức giá trị do kiểm toán viên xác định thấp hơn mức hoặc các mức
trọng yếu của một nhóm các giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết
minh trên báo cáo tài chính.
II / NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Yêu cầu
Xác định
mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện khi lập kế hoạch kiểm toán
10. Khi lập chiến lược kiểm toán tổng thể, kiểm
toán viên phải xác định mức trọng yếu
đối với tổng thể báo cáo tài chính. Trong những trường hợp cụ thể của đơn vị được
kiểm toán, nếu có một hoặc một số nhóm các giao dịch, số dư tài khoản hoặc
thông tin thuyết minh (nếu xét riêng lẻ) có sai sót với mức thấp hơn mức trọng
yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính nhưng có thể ảnh hưởng (nếu xét tổng thể)
đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên
phải xác định mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu áp dụng cho từng nhóm giao dịch,
số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh (xem hướng dẫn tại đoạn A2 – A11 Chuẩn
mực này).
11. Kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu
thực hiện cho mục đích đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu và xác định nội
dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo trong quá trình
kiểm toán (xem hướng dẫn tại đoạn A12 Chuẩn mực này).
12. Kiểm toán viên phải sửa đổi mức trọng yếu so với tổng thể và toàn diện báo cáo giải trình kinh tế tài chính và mức trọng yếu hoặc những mức trọng yếu cho những nhóm thanh toán giao dịch, số dư thông tin tài khoản hay thông tin thuyết minh trong trường hợp kiểm toán viên có thêm thông tin trong quy trình truy thuế kiểm toán mà hoàn toàn có thể dẫn đến việc đổi khác mức trọng yếu hoặc những mức trọng yếu so với mức xác lập trước đó ( xem hướng dẫn tại đoạn A13 Chuẩn mực này ) .
13. Nếu kiểm toán viên kết luận rằng việc áp dụng
một mức trọng yếu thấp hơn mức trọng yếu đã xác định trước đó đối với tổng thể
báo cáo tài chính và mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu cho các nhóm giao dịch,
số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh là phù hợp thì kiểm toán viên phải
xác định xem có cần phải sửa đổi lại mức trọng yếu thực hiện, và xem nội dung,
lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo có còn phù hợp hay
không.
Tài liệu, hồ sơ truy thuế kiểm toán
14. Kiểm toán viên phải lưu trong hồ sơ truy thuế kiểm toán những số liệu và cơ sở xác lập về mức trọng yếu sau ( xem đoạn 08 – 11 và đoạn A6 Chuẩn mực truy thuế kiểm toán Nước Ta số 230 ) :
(a) Mức trọng yếu đối với tổng thể
báo cáo tài chính (xem đoạn 10 Chuẩn mực này);
(b) Mức trọng yếu hoặc các mức trọng
yếu cho các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh (xem đoạn
10 Chuẩn mực này);
(c) Mức trọng yếu thực hiện (xem
đoạn 11 Chuẩn mực này);
(d) Những sửa đổi của các mức trọng
yếu từ mục (a) đến mục (c) nêu trên trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán
(xem đoạn 12 – 13 Chuẩn mực này).
III/ HƯỚNG DẪN
ÁP DỤNG
Khi thực hiện Chuẩn mực này cần tham khảo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 200.
Mức trọng yếu và rủi ro đáng tiếc truy thuế kiểm toán
( hướng dẫn đoạn 05 Chuẩn mực này )
A1. Khi triển khai một cuộc truy thuế kiểm toán báo cáo giải trình kinh tế tài chính, tiềm năng toàn diện và tổng thể của kiểm toán viên là ( 1 ) đạt được sự bảo vệ hài hòa và hợp lý rằng liệu báo cáo giải trình kinh tế tài chính, xét trên phương diện toàn diện và tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp kiểm toán viên đưa ra quan điểm về việc liệu báo cáo giải trình kinh tế tài chính có được lập tương thích với khuôn khổ về lập và trình diễn báo cáo giải trình kinh tế tài chính được vận dụng trên những góc nhìn trọng yếu hay chưa ; ( 2 ) lập báo cáo giải trình truy thuế kiểm toán về báo cáo giải trình kinh tế tài chính và trao đổi thông tin theo pháp luật của chuẩn mực truy thuế kiểm toán, tương thích với những phát hiện của kiểm toán viên ( xem đoạn 11 Chuẩn mực truy thuế kiểm toán Nước Ta số 200 ). Kiểm toán viên đạt được sự bảo vệ hài hòa và hợp lý bằng cách tích lũy không thiếu những dẫn chứng truy thuế kiểm toán thích hợp để giảm rủi ro đáng tiếc truy thuế kiểm toán tới mức thấp hoàn toàn có thể đồng ý được theo lao lý tại đoạn 17 Chuẩn mực truy thuế kiểm toán Nước Ta số 200. Rủi ro truy thuế kiểm toán là rủi ro đáng tiếc mà kiểm toán viên đưa ra quan điểm truy thuế kiểm toán không tương thích khi báo cáo giải trình kinh tế tài chính còn tiềm ẩn sai sót trọng yếu. Rủi ro truy thuế kiểm toán gồm có rủi ro đáng tiếc có sai sót trọng yếu và rủi ro đáng tiếc phát hiện ( theo lao lý tại đoạn 13 ( c ) Chuẩn mực truy thuế kiểm toán Nước Ta số 200 ). Mức trọng yếu và rủi ro đáng tiếc truy thuế kiểm toán cần được xem xét trong suốt quy trình truy thuế kiểm toán, khi :
(a) Xác
định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
315);
(b) Xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo cần thực hiện (xem Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam
số 330);
(c) Đánh giá ảnh hưởng của các
sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) trên báo cáo tài chính (xem Chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam số 450) và
hình thành ý kiến kiểm toán (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700).
Lưu ý khi truy thuế kiểm toán những đơn vị chức năng trong nghành nghề dịch vụ công
(hướng dẫn
đoạn 10 Chuẩn mực này)
A2. Đối với các đơn vị trong lĩnh vực công, cơ
quan quản lý nhà nước là đối tượng chủ yếu sử dụng báo cáo tài chính. Đồng thời,
báo cáo tài chính có thể được cơ quan quản lý nhà nước sử dụng để đưa ra các
quyết định khác ngoài các quyết định kinh tế. Do đó, việc xác định mức trọng yếu
đối với tổng thể báo cáo tài chính và mức trọng yếu hay các mức trọng yếu cho
nhóm các giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh trong cuộc kiểm
toán báo cáo tài chính của các đơn vị trong lĩnh vực công chịu ảnh hưởng bởi
pháp luật, các quy định và nhu cầu sử dụng thông tin tài chính của cơ quan quản
lý nhà nước và công chúng liên quan đến các chương trình của lĩnh vực công.
Sử dụng tiêu chuẩn để xác lập mức trọng yếu so với tổng thể và toàn diện báo cáo giải trình kinh tế tài chính
(hướng dẫn đoạn 10 Chuẩn mực này)
A3. Việc xác lập mức trọng yếu yên cầu những xét đoán trình độ. Thông thường, kiểm toán viên sử dụng một tỷ suất Phần Trăm ( % ) vận dụng cho một tiêu chuẩn được lựa chọn làm điểm khởi đầu trong việc xác lập mức trọng yếu so với toàn diện và tổng thể báo cáo giải trình kinh tế tài chính. Các yếu tố hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động đến việc xác lập tiêu chuẩn tương thích gồm có :
(1) Các yếu tố của báo cáo tài
chính (ví dụ tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn, doanh thu, chi phí);
(2) Các khoản mục trên báo cáo
tài chính mà người sử dụng thường quan tâm (ví dụ, để đánh giá tình hình hoạt động,
người sử dụng báo cáo tài chính thường quan tâm đến các khoản mục lợi nhuận,
doanh thu hoặc tài sản ròng);
(3) Đặc điểm hoạt động kinh
doanh của đơn vị được kiểm toán, đặc điểm ngành nghề và môi trường kinh doanh
mà đơn vị đang hoạt động;
(4) Cơ cấu sở hữu vốn của đơn vị
được kiểm toán và cách thức đơn vị huy động vốn (ví dụ, nếu đơn vị hoạt động
kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn vay thì người sử dụng báo cáo tài chính có thể
quan tâm nhiều hơn đến tài sản và quyền của chủ nợ đối với tài sản này hơn là
quan tâm đến lợi nhuận của đơn vị);
(5) Khả năng thay đổi tương đối
của tiêu chí đã được xác định.
A4. Một số ví dụ về các tiêu chí phù hợp, tùy thuộc
vào từng trường hợp của đơn vị được kiểm toán, có thể bao gồm các khoản mục thu
nhập được báo cáo như lợi nhuận trước thuế, tổng doanh thu, lợi nhuận gộp và tổng
chi phí, tổng vốn chủ sở hữu và giá trị tài sản ròng. Lợi nhuận trước thuế từ
hoạt động kinh doanh liên tục thường được sử dụng cho các đơn vị hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận. Khi lợi nhuận trước thuế dễ bị biến động, các tiêu chí khác có
thể sẽ phù hợp hơn như lợi nhuận gộp hoặc tổng doanh thu.
A5. Liên quan đến các tiêu chí đã được lựa chọn,
các dữ liệu tài chính phù hợp thường bao gồm các số liệu về kết quả kinh doanh
và tình hình tài chính của các kỳ trước, các số liệu về kết quả kinh doanh và
tình hình tài chính lũy kế đến kỳ này, và kế hoạch hay dự đoán cho kỳ hiện tại,
được điều chỉnh khi có biến động lớn theo từng trường hợp của đơn vị được kiểm
toán (ví dụ, một giao dịch hợp nhất kinh doanh lớn) và những thay đổi liên quan
trong ngành nghề hay môi trường kinh doanh mà đơn vị đang hoạt động. Ví dụ, khi
ở điểm khởi đầu, mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính được xác định
cho một đơn vị cụ thể ở mức một tỷ lệ phần trăm nhất định trên lợi nhuận trước
thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục. Khi có các biến động bất thường làm tăng
hoặc giảm đáng kể lợi nhuận trước thuế, kiểm toán viên có thể xác định mức trọng
yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính bằng cách sử dụng một mức lợi nhuận trước
thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục đã loại trừ ảnh hưởng của các biến động bất
thường, dựa vào kết quả kinh doanh của các kỳ trước.
A6. Mức trọng yếu phải được xác định gắn liền với
báo cáo tài chính mà kiểm toán viên thực hiện kiểm toán. Khi báo cáo tài chính
được lập cho kỳ kế toán dài hơn hoặc ngắn hơn 12 tháng, ví dụ đối với một số
đơn vị mới thành lập hoặc thay đổi kỳ kế toán, mức trọng yếu cần phải được xác
định dựa trên báo cáo tài chính được lập cho kỳ kế toán đó.
A7. Kiểm toán viên phải sử dụng
xét đoán chuyên môn khi xác định tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng cho tiêu chí đã lựa
chọn. Tỷ lệ phần trăm (%) và tiêu chí được lựa chọn thường có mối liên hệ với
nhau, như tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng cho mức lợi nhuận trước thuế từ hoạt động
kinh doanh liên tục thường cao hơn tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng cho doanh thu.
Ví dụ, kiểm toán viên có thể cân nhắc mức năm phần trăm (5%) trên lợi nhuận trước
thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục đối với đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận, trong khi đó kiểm toán viên có thể cân nhắc tỷ lệ một phần trăm (1%)
trên tổng doanh thu hoặc chi phí là phù hợp đối với đơn vị hoạt động phi lợi
nhuận. Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm cao hơn hoặc thấp hơn có thể được coi là phù
hợp tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị nhỏ
A8. Khi doanh thu trước thuế từ hoạt động giải trí kinh doanh thương mại liên tục của một đơn vị chức năng hoạt động giải trí vì tiềm năng doanh thu liên tục ở mức thấp, hoàn toàn có thể do Giám đốc đồng thời là người chủ sở hữu doanh nghiệp đã thu lại hầu hết doanh thu trước thuế dưới dạng tiền lương và những khoản thu nhập khác thì tiêu chuẩn lựa chọn để xác lập mức trọng yếu là doanh thu trước tiền lương, những khoản thu nhập khác và thuế hoàn toàn có thể sẽ tương thích hơn .
Lưu ý khi truy thuế kiểm toán những đơn vị chức năng trong nghành công
A9. Khi truy thuế kiểm toán những đơn vị chức năng trong nghành nghề dịch vụ công, tổng ngân sách hoặc ngân sách thuần ( ngân sách trừ thu nhập ) hoàn toàn có thể là tiêu chuẩn tương thích cho hoạt động giải trí của từng chương trình. Khi đơn vị chức năng hoạt động giải trí trong nghành nghề dịch vụ công có quản lý tài sản công, gia tài hoàn toàn có thể là tiêu chuẩn tương thích để xác lập mức trọng yếu .
Mức trọng yếu hay những mức trọng yếu cho những nhóm thanh toán giao dịch, số dư thông tin tài khoản hay thông tin thuyết minh
(hướng dẫn đoạn
10 Chuẩn mực này)
A10. Các yếu tố hoàn toàn có thể dẫn đến sự sống sót của một hoặc một số ít nhóm những thanh toán giao dịch, số dư thông tin tài khoản hay thông tin thuyết minh mà theo đó, những sai sót mặc dầu thấp hơn mức trọng yếu so với toàn diện và tổng thể báo cáo giải trình kinh tế tài chính hoàn toàn có thể gây tác động ảnh hưởng đến quyết định hành động kinh tế tài chính của người sử dụng thông tin trên báo cáo giải trình kinh tế tài chính, gồm có :
(1) Pháp luật và các quy định hoặc
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo
tài chính được áp dụng có thể gây ảnh hưởng đến kỳ vọng của người sử dụng báo
cáo tài chính liên quan đến giá trị hay thông tin thuyết minh của một số khoản
mục nhất định trên báo cáo tài chính (ví dụ, giao dịch với các bên liên quan và
thù lao của Ban Giám đốc và Ban quản trị);
(2) Những thông tin thuyết minh
quan trọng liên quan đến ngành nghề mà đơn vị được kiểm toán đang hoạt động (ví
dụ, chi phí nghiên cứu và triển khai của một công ty dược);
(3) Người sử dụng báo cáo tài
chính quan tâm đến một lĩnh vực hoạt động nhất định của đơn vị, cần được thuyết
minh riêng rẽ trên báo cáo tài chính (ví dụ, việc mới mua một bộ phận kinh
doanh).
A11. Khi xem xét trường hợp cụ thể của đơn vị được
kiểm toán, nếu có sự tồn tại của những nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay
thông tin thuyết minh như đã nêu tại đoạn A10 Chuẩn mực này thì kiểm toán viên
có thể cần thu thập thêm thông tin về quan điểm và kỳ vọng của Ban quản trị và
Ban Giám đốc đơn vị.
Mức trọng yếu triển khai
( hướng dẫn đoạn 11 Chuẩn mực này )
A12. Việc lập kế hoạch truy thuế kiểm toán chỉ để phát hiện những sai sót trọng yếu một cách đơn lẻ dẫn tới việc bỏ lỡ một thực tiễn là tác động ảnh hưởng lũy kế của những sai sót không trọng yếu đơn lẻ hoàn toàn có thể làm cho báo cáo giải trình kinh tế tài chính còn tiềm ẩn những sai sót trọng yếu. Việc này cũng chưa tính đến những sai sót hoàn toàn có thể không được phát hiện. Mức trọng yếu triển khai là một mức giá trị hoặc những mức giá trị do kiểm toán viên xác lập nhằm mục đích giảm năng lực những tác động ảnh hưởng tổng hợp của những sai sót không được kiểm soát và điều chỉnh và không được phát hiện vượt quá mức trọng yếu so với toàn diện và tổng thể báo cáo giải trình kinh tế tài chính xuống một mức độ thấp hài hòa và hợp lý. Tương tự như vậy, mức trọng yếu thực thi tương quan đến hơn cả trọng yếu được xác lập cho nhóm những thanh toán giao dịch, số dư thông tin tài khoản hay thông tin thuyết minh cũng được đưa ra để làm giảm tới cả thấp hoàn toàn có thể gật đầu được năng lực hoàn toàn có thể xảy ra những sai sót không được kiểm soát và điều chỉnh hoặc không được phát hiện trong nhóm những thanh toán giao dịch, số dư thông tin tài khoản và thông tin thuyết minh. Việc xác lập mức trọng yếu triển khai không chỉ đơn thuần là một phép tính cơ học mà nhu yếu phải có những xét đoán trình độ. Việc xét đoán này nhờ vào vào hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị chức năng được truy thuế kiểm toán, được update biến hóa trong suốt quy trình thực thi những thủ tục nhìn nhận rủi ro đáng tiếc, và thực chất, khoanh vùng phạm vi của những sai sót đã phát hiện trong những cuộc truy thuế kiểm toán trước và nhìn nhận của kiểm toán viên về những sai sót trong kỳ hiện tại .
Sửa đổi mức trọng yếu trong quy trình truy thuế kiểm toán
( hướng dẫn đoạn 12 Chuẩn mực này )
A13. Mức trọng yếu đối với tổng thể
báo cáo tài chính và mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu đối với các nhóm
giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh có thể cần phải được sửa đổi
khi có các tình huống phát sinh trong quá trình kiểm toán (ví dụ, đơn vị được
kiểm toán quyết định bán một bộ phận kinh doanh chính), có thêm các thông tin mới
hay việc thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán làm thay đổi hiểu biết của kiểm
toán viên về đơn vị được kiểm toán và hoạt động của đơn vị đó. Ví dụ trong quá
trình kiểm toán, nếu kết quả kinh doanh thực tế khác khá nhiều so với kết quả dự
kiến vào cuối kỳ đã được sử dụng để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo
cáo tài chính thì kiểm toán viên cần phải sửa đổi lại mức trọng yếu này./.
* * * * *