Tổng quan các rối loạn đông máu – Huyết học và ung thư học – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Related Articles

Khi hoài nghi bệnh nhân có rối loạn đông máu cần xét nghiệm : thời hạn prothrombin ( PT ) và thời hạn thromboplastin từng phần ( PTT ). Cần xét nghiệm cả tổng nghiên cứu và phân tích tế bào máu ngoại vi với số lượng tiểu cầu, và xét nghiệm tiêu bản máu ngoại vi. Kết quả của những xét nghiệm thu hẹp khoanh vùng phạm vi chẩn đoán và gợi ý những xét nghiệm cần làm thêm .

Kết quả bình thường trên các xét nghiệm ban đầu loại trừ nhiều rối loạn chảy máu. Ngoại trừ bệnh VWD và giãn mạch xuất huyết di truyền. VWD tồn tại khá phổ biến (bệnh von Willebrand) thường kết hợp với giảm yếu tố VIII tuy nhiên chưa đủ để gây kéo dài PTT. Nếu bệnh nhân có kết quả xét nghiệm ban đầu bình thường nhưng các triệu chứng hoặc dấu hiệu chảy máu và có tiền sử gia đình, thì cần kiểm tra bệnh von Willebrand bằng các xét nghệm: định lượng kháng nguyên VWF (von Willebrand factor), và hoạt động của đồng yếu tố ristocetin (một xét nghiệm gián tiếp cho VWF đa chuỗi), VWF đa chuỗi, và nồng độ yếu tố VIII.

Nếu giảm tiểu cầu lhì xét nghệm tiêu bản máu ngoại vi có thể cho biết nguyên nhân. Nếu tiêu bản máu ngoại vi có kết quả bình thường, bệnh nhân cần được kiểm tra nhiễm HIV. Nếu kết quả của xét nghiệm HIV âm tính và bệnh nhân không mang thai và không dùng thuốc gây hủy hoại tiểu cầu, thì có thể có do giảm tiểu cầu vô căn. Nếu có dấu hiệu tan máu (có mảnh vỡ hồng cầu trên tiêu bản máu ngoại vi, giảm Hb), có thể nghi ngờ ban xuát huyết giảm tiểu cầu huyết khối (TTP) hoặc hội chứng tan máu tăng ure máu (HUS), mặc dù đôi khi các rối loạn tan máu khác có thể có những dấu hiệu này. HUS xảy ra ở bệnh nhân viêm đại tràng xuất huyết. Một dạng không điển hình ít gặp của HUS xảy ra ở những bệnh nhân có bất thường con dường bổ thể bẩm sinh. Nghiệm pháp Coombs âm tính ở TTP và HUS. Nếu kết quả công thức máu và tiêu bản máu ngoại vi có giảm tế bào và có các bạch cầu non thì cần xét nghiệm tủy xương để chẩn đoán các bệnh máu ác tính.

PTT kéo dài với tiểu cầu và PT bình thường gơi ý bệnh hemophilia A hoặc B. Cần định lượng yếu tố VIII và IX. Các chất ức chế làm kéo dài PTT bao gồm các tự kháng thể chống yếu tố VIII, kháng thể chống phức hợp protein-phospholipid (kháng đông lupus). Cần nghĩ tới một trong các chất ức chế đó khi trộn mẫu bệnh nhân với huyết tương bình thường tỷ lệ 1:1 cũng không điều chỉnh được PTT về bình thường.

PT kéo dài với tiểu cầu và PTT bình thường gợi ý thiếu yếu tố VII. Thiếu yếu tố VII bẩm sinh rất hiếm; tuy nhiên, thời gian bán thải ngắn của yếu tố VII trong huyết tương làm cho yếu tố VII giảm xuống mức thấp nhanh hơn các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K khác ở bệnh nhân bắt đầu điều trị chống đông bằng warfarin hoặc ở những bệnh nhân mới mắc bệnh gan.

PT, PTT kéo dài, giảm tiểu cầu gợi ý DIC, đặc biệt nếu có liên quan đến các biến chứng về sản khoa, nhiễm trùng huyết, ung thư hoặc sốc. Chần đoán xác định dựa vào: tăng D-dimers (hoặc sản phẩm giáng hóa củai fibrin) và giảm fibrinogen.

Kéo dài PT hoặc PTT, số lượng tiểu cầu bình thường xảy ra ở bệnh gan hoặc thiếu vitamin K hoặc đang sử dụng warfarin, heparin không phân đoạn, hoặc kháng đông đường uống mới (ức chế thrombin hoặc yếu tố X hoạt hóa). Chản đoán bệnh gan dựa trên: bệnh sử, tăng ALT, bilirubin; xét nghiệm virus viêm gan.

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories