Quốc hội Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ quan thực hiện quyền lập pháp quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cơ quan này có ba chức năng chính:

  1. Lập hiến, lập pháp
  2. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
  3. Giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước.

Nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội lê dài 5 năm [ 1 ]. Mỗi năm Quốc hội họp thường kỳ 2 lần [ 2 ]. Quốc hội Nước Ta tổ chức triển khai và hoạt động giải trí theo nguyên tắc tập trung chuyên sâu dân chủ thao tác theo chính sách hội nghị và quyết định hành động theo hầu hết [ 3 ]. Bộ máy hoạt động giải trí của Quốc hội gồm : quản trị Quốc hội, những Phó quản trị Quốc hội, Tổng thư ký Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ( cơ quan thường trực ), Hội đồng dân tộc và 12 Ủy ban, Ban và Viện khác .Quốc hội Nước Ta lúc bấy giờ là thành viên của Liên minh Nghị viện quốc tế ( IPU ), Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN ( AIPA ), Hội đồng Nghị viện châu Á ( APA ), Diễn đàn những nghị sĩ về dân số và tăng trưởng ( AFPPD ), Liên minh Nghị viện những nước Châu Á Thái Bình Dương – Thái Bình Dương ( APPU ), Tổ chức nghị sĩ thầy thuốc quốc tế ( IMPO ) là thành viên sáng lập Diễn đàn Nghị sĩ những nước châu Á – Thái Bình Dương ( APPF ), Liên minh Nghị viện Pháp ngữ ( APF ) [ 4 ] .

Chức vụ đứng đầu Quốc hội Việt Nam là Chủ tịch Quốc hội, người này cũng đồng thời là chủ tịch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội.

Quốc hội đương nhiệm lúc bấy giờ là Quốc hội khóa XV, được bầu vào ngày 23 tháng 5 năm 2021 và bầu ra 499 đại biểu. quản trị Quốc hội đương nhiệm là ông Vương Đình Huệ. [ 5 ]

Theo các sắc lệnh năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về cuộc tổng tuyển cử đầu tiên và các văn kiện tại 2 kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá I năm 1946 – tên gọi ban đầu của cơ quan lập pháp là Quốc dân Đại hội hay Quốc dân Đại biểu Đại hội (còn gọi là Toàn quốc Đại biểu Đại hội). Trong văn bản thường được gọi tắt là Quốc hội.[6][7][8][9]

Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Hiến pháp năm 1946 được thông qua tại kỳ họp thứ 2 (Quốc hội khoá I) đã xác định tên chính thức của cơ quan lập pháp là Nghị viện Nhân dân.[10] Tuy nhiên, bản Hiến pháp này không được công bố/thực thi trong hoàn cảnh chiến tranh, vì vậy tên gọi và các chức vụ cũ trong Quốc hội vẫn được giữ nguyên khi hoạt động.[11]

Ngày 31 tháng 12 năm 1959, Hiến pháp năm 1959 được thông qua tại kỳ họp thứ 11 (Quốc hội khóa I) và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố vào ngày 01 tháng 1 năm 1960 – hiến định tên chính thức của cơ quan lập pháp này là Quốc hội.[12] Cho đến nay, trải qua các bản Hiến pháp sửa đổi sau này, đây là tên gọi cố định cho “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” của Việt Nam.[13]

Quốc hội Nước Ta lúc bấy giờ được sinh ra cùng với nhà nước Nước Ta sau cuộc Tổng tuyển cử đầu tiền bầu ra Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 6 tháng 1 năm 1946. Từ thời gian đó đến năm 2021, cơ quan này đã trải qua 14 khóa thao tác, với 12 đời quản trị Quốc hội .Theo chiều dài thời hạn, từ những năm đầu đến Khóa VII thập niên 1980, hoạt động giải trí của Quốc hội rất yếu ớt và mờ nhạt. Mỗi năm Quốc hội chỉ nhóm họp một lần, lê dài không quá năm ngày. Có đôi lần Quốc hội nhóm họp lâu hơn vì tính cách tượng trưng lịch sử dân tộc, như Khóa VI họp đến 9 ngày nhân ngày nghị hội toàn nước thống nhất hai Miền Nam Bắc ở năm 1976. Những năm đó Quốc hội có mỗi một tính năng duy nhất là hợp thức hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. [ 14 ]Phải đến năm 1985 Quốc hội Nước Ta mới khởi đầu khởi sắc, tuy vẫn do Đảng và Ban Chấp hành Trung ương chi phối nhưng đã có những tiếng nói riêng dưới sự quản lý của quản trị Quốc hội. Quốc hội từ đấy có những đại biểu lên tiếng phát biểu tự do hơn, thay vì như trước kia Tổng Thư ký Quốc hội phải duyệt trước bài diễn văn của đại biểu, trước khi đại biểu được nói tại phiên họp. Cũng theo đó, Quốc hội không còn việc biểu quyết với tỷ suất đồng đều 100 %. Sang thập niên 1990, Quốc hội mới có lệ phỏng vấn nhà nước, và kể từ năm 1998 thì mở màn truyền hình trực tiếp những kỳ họp Quốc hội để công chúng theo dõi. [ 15 ]Năm 2013, Quốc hội mở màn bỏ phiếu tin tưởng những thành viên nhà nước ( Thủ tướng và những Bộ trưởng ). Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa năm nay – 2021, tiếp thị quảng cáo và người dân dần chăm sóc nhiều hơn tới những kỳ họp của Quốc hội. Mỗi phiên phỏng vấn những chỉ huy nhà nước của Quốc hội đều được tiếp thị quảng cáo chăm sóc và đưa tin nhiệt tình. Nhiều câu hỏi phỏng vấn của những đại biểu Quốc hội trong những buổi ” hoạt động và sinh hoạt nghị trường ” thậm chí còn còn trở thành những đề tài nóng trên mạng xã hội .

Quốc hội khóa tiên phong được bầu 6 tháng 01 năm 1946. Gồm 403 đại biểu : 333 đại biểu được bầu, 70 ghế theo ý kiến đề nghị của Hồ Chí Minh ( dành cho 50 người của Nước Ta Quốc dân Đảng và 20 người của Nước Ta Cách mạng Đồng minh Hội ), những đại biểu không qua bầu cử được gọi là đại biểu ” truy nhận “. quản trị Quốc hội tiên phong ( lúc đó gọi là Trưởng ban Thường trực Quốc hội ) là Nguyễn Văn Tố. Từ ngày 8/11/1946 quản trị Quốc hội là Bùi Bằng Đoàn. Từ ngày 20/9/1955 quản trị Quốc hội là Tôn Đức Thắng .

Kỳ họp thứ nhất (2 tháng 3 năm 1946) công nhận: Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Kháng chiến ủy viên hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, Vĩnh Thụy làm Cố vấn tối cao, Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 thành viên.

Tuy lúc đầu Quốc hội có 403 đại biểu nhưng đến khóa mùa thu năm 1946 thì số đại biểu chỉ còn 291 và khi mãn khóa thì chỉ còn 242 vì hầu hết những đại biểu trái chiều thuộc Nước Ta Cách mạng liên minh hội ( Việt Cách ) và Nước Ta Quốc dân đảng ( Việt Quốc ) đã bỏ chạy sang Nước Trung Hoa khi không còn sự hậu thuẫn về quân sự chiến lược và chính trị của quân đội Trung Hoa Dân quốc sau Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. [ 16 ]Quốc hội khóa I đã trải qua hiến pháp tiên phong ( Hiến pháp 1946 ) ngày 9 tháng 11 năm 1946, trải qua Hiến pháp sửa đổi ( Hiến pháp 1959 ) ngày 31 tháng 12 năm 1959 ; phát hành 16 luật, trong đó có luật cải cách ruộng đất và phê chuẩn Hiệp định Genève .

Bầu ngày 8 tháng 5 năm 1960. Gồm 453 đại biểu ( 362 đại biểu được bầu, 91 đại biểu khóa I của Miền Nam được lưu nhiệm ) .

Kỳ họp thứ nhất (từ 6 – 15 tháng 7 năm 1960) tại Hà Nội bầu:

  • Chủ tịch nước: Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 21 ủy viên chính thức, 5 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Quốc hội: Trường Chinh
  • Thủ tướng Hội đồng Chính phủ Phạm Văn Đồng

Quốc hội khóa II trải qua 6 luật, 9 pháp lệnh và phê chuẩn 4 hiệp ước – hiệp định song phương với Tiệp Khắc, Triều Tiên, Trung Hoa và Cuba. [ 17 ]

Bầu ngày 26 tháng 4 năm 1964. Gồm 453 đại biểu : 366 đại biểu được bầu, 87 đại biểu khóa I của Miền Nam được lưu nhiệm .

Kỳ họp thứ nhất (từ 25 tháng 6 – 3 tháng 7 năm 1964) bầu:

  • Chủ tịch nước: Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 23 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Quốc hội: Trường Chinh
  • Thủ tướng Hội đồng Chính phủ Phạm Văn Đồng

Quốc hội khóa III đã trải qua 1 luật, 5 pháp lệnh và phê chuẩn 4 hiệp định song phương. [ 18 ]

Bầu ngày 11 tháng 4 năm 1971. Bầu 420 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 6 – 10 tháng 6 năm 1971) bầu:

  • Chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch nước: Nguyễn Lương Bằng
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 24 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Quốc hội: Trường Chinh
  • Thủ tướng Hội đồng Chính phủ Phạm Văn Đồng

Quốc hội khóa IV đã trải qua 1 Pháp lệnh Quy định việc bảo vệ rừng. [ 19 ]

Bầu ngày 6 tháng 4 năm 1975. Bầu 424 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 3 – 6 tháng 6 năm 1975) bầu:

  • Chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch nước: Nguyễn Lương Bằng
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 19 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Quốc hội: Trường Chinh
  • Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng

Quốc hội khóa V là kỳ quốc hội ngắn nhất, vì đã rút ngắn nhiệm kỳ để thực thi cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của quốc gia thống nhất. [ 20 ]

Quốc hội tiên phong của nước Nước Ta thống nhất. Bầu ngày 25 tháng 4 năm 1976. Bầu 492 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 24 tháng 6 – 3 tháng 7 năm 1976) tại Hà Nội bầu:

Cũng tại kỳ họp này, sáng ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đã quyết định hành động đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đổi tên thành phố TP HCM – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh .Quốc hội khóa VI đã trải qua Hiến pháp 1980 tại kỳ họp 7 ngày 18 tháng 12 năm 1980 ; đồng thời Quốc hội khóa VI cũng trải qua 1 luật, 4 pháp lệnh và phê chuẩn 12 hiệp ước – hiệp định song phương. [ 21 ]

Bầu ngày 26 tháng 4 năm 1981. Bầu 496 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 24 tháng 6 – 4 tháng 7 năm 1981) bầu:

Quốc hội khóa VII đã trải qua 10 luật và bộ luật, 15 pháp lệnh ; phê chuẩn 19 hiệp định, hiệp ước, công ước song phương và quốc tế. [ 22 ]

Bầu ngày 19 tháng 4 năm 1987. Bầu 496 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 17 – 22 tháng 6 năm 1987) bầu:

Quốc hội khóa VIII đã trải qua Hiến pháp 1992 tại kỳ họp 11 ngày 15 tháng 4 năm 1992 ; đồng thời Quốc hội khóa VIII cũng trải qua 31 luật và bộ luật, 42 pháp lệnh và phê chuẩn 1 hiệp định quốc tế. [ 23 ]

Bầu ngày 19 tháng 7 năm 1992. Bầu 395 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 19 tháng 9 – 8 tháng 10 năm 1992) bầu:

  • Chủ tịch nước: Lê Đức Anh, Phó Chủ tịch nước: Nguyễn Thị Bình
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 13 thành viên. Chủ tịch Quốc hội: Nông Đức Mạnh
  • Thủ tướng Chính phủ: Võ Văn Kiệt
  • Trưởng đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội: Vũ Mão

Quốc hội khóa IX đã trải qua 39 luật và bộ luật, 41 pháp lệnh ; phê chuẩn 3 hiệp định, công ước song phương và quốc tế. [ 24 ]

Bầu ngày 20 tháng 7 năm 1997. Bầu 450 đại biểu. [ 25 ]

Kỳ họp thứ nhất (từ 20 – 29 tháng 9 năm 1997) bầu:

  • Chủ tịch nước: Trần Đức Lương, Phó Chủ tịch nước: Nguyễn Thị Bình
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 14 thành viên. Chủ tịch Quốc hội: Nông Ðức Mạnh; (Nguyễn Văn An, từ ngày 27 tháng 6 năm 2001 tại Kỳ họp thứ 9)
  • Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải
  • Trưởng đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội: Vũ Mão

Quốc hội khóa X đã trải qua Nghị quyết về sửa đổi, bổ trợ một số ít điều của Hiến pháp ( phát hành ngày 7 tháng 1 năm 2002 ) ; trải qua 31 luật và bộ luật, 36 pháp lệnh ; phê chuẩn Hiệp ước biên giới đất liền với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và Hiệp định thương mại với Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. [ 26 ]

Hội trường Ba Đình – nơi diễn ra những kỳ họp quốc hội cho đến năm 2007Bầu ngày 19 tháng 5 năm 2002. Bầu 498 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 19 tháng 7 – 12 tháng 8 năm 2002) bầu:

  • Chủ tịch nước: Trần Đức Lương, Phó Chủ tịch nước: Trương Mỹ Hoa
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 13 thành viên. Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Văn An
  • Thủ tướng Chính phủ: Phan Văn Khải.
  • Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội gồm 11 người. Trưởng đoàn thư ký: Bùi Ngọc Thanh

Kỳ họp thứ 9 (từ 16 tháng 5 – 29 tháng 6 năm 2006) Quốc hội biểu quyết miễn nhiệm các chức vụ Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội tại vị và tiến hành bầu mới:

Quốc hội khóa XI đã trải qua 84 luật và bộ luật, 34 pháp lệnh ; phê chuẩn 3 hiệp ước, hiệp định song phương và quốc tế ; trong đó Quốc hội đã phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định xây dựng Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 10 ( tháng 11 năm 2006 ). [ 27 ]

Bầu ngày 20 tháng 5 năm 2007. Bầu 493 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 19 tháng 7 – 4 tháng 8 năm 2007) bầu:

  • Chủ tịch nước: Nguyễn Minh Triết, Phó Chủ tịch nước: Nguyễn Thị Doan
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 18 thành viên. Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Phú Trọng
  • Thủ tướng Chính phủ: Nguyễn Tấn Dũng
  • Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội gồm 13 người. Trưởng đoàn thư ký: Trần Đình Đàn

Quốc hội khóa XII đã trải qua 67 luật và 14 pháp lệnh .Quốc hội khóa XII cũng rút ngắn thời hạn hoạt động giải trí 1 năm để triển khai bầu cử Quốc hội khóa XIII cho cùng thời hạn với cuộc bầu cử đại biểu HĐND những cấp năm 2011. [ 28 ]

Bầu ngày 22 tháng 5 năm 2011. Bầu 500 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 21 tháng 7 – 6 tháng 8 năm 2011) bầu:

Kỳ họp thứ 6 (từ 21 tháng 10 – 31 tháng 11 năm 2013) Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013 vào ngày 28/11/2013 với tỷ lệ biểu quyết: 97,59%. Trong đó, tổng số ĐBQH có mặt, biểu quyết: 488, chiếm tỷ lệ 97,99%; tổng số ĐBQH tán thành: 486; chiếm tỷ lệ 97, 59%; số ĐBQH không tán thành: 0; số ĐBQH không biểu quyết: 2, chiếm tỷ lệ 0,4%.[29]

Kỳ họp thứ 11 – kỳ họp cuối cùng của khóa XIII (từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 12 tháng 4 năm 2016), Quốc hội bỏ phiếu miễn nhiệm các chức vụ Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ tại vị và bầu mới:

Như vậy, nhân sự cấp cao của cả khóa XIII như sau :

Chủ tịch
Các Phó Chủ tịch

Quốc hội khóa XIII đã trải qua 100 luật, bộ luật và 10 pháp lệnh [ 37 ]. Quốc hội khóa XIII cũng là lần tiên phong Nước Ta là chủ nhà đăng cai tổ chức triển khai Đại hội đồng Liên minh Nghị viện quốc tế lần thứ 132 ( IPU-132 ) tại Tòa nhà Quốc hội. Đây cũng là khóa tiên phong triển khai việc Lấy phiếu tin tưởng với những chức vụ mà Quốc hội đầu ra vào kỳ họp thứ 5 diễn ra vào tháng 5/2013 .

Bầu ngày 22 tháng 5 năm năm nay. Bầu 496 đại biểu .

Kỳ họp thứ nhất (từ 20 tháng 7 năm 2016 – 29 tháng 7 năm 2016) bầu:

Đây là khóa Quốc hội chính thức tiên phong thực thi lao lý tuyên thệ khi nhậm chức với cả bốn chức vụ quản trị nước, quản trị Quốc hội, Thủ tướng nhà nước và Chánh án tòa án nhân dân Tối cao .

Kỳ họp thứ 6 (từ 22 tháng 10 năm 2018 – 21 tháng 11 năm 2018), Quốc hội bầu lại Chủ tịch nước thay thế cố Chủ tịch Trần Đại Quang.

quản trị nước Trần Đại Quang bất ngờ đột ngột qua đời ngày 21/09/2018 do trọng bệnh. [ 38 ] Ngày 23/09/2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát hành thông tin Phó quản trị nước đương nhiệm Đặng Thị Ngọc Thịnh tạm giữ chức Quyền quản trị nước .Sáng ngày 23/10/2018, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã bỏ phiếu bầu ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư đương nhiệm – làm quản trị nước khóa 14 với tỷ suất 99,79 % tổng số đại biểu quốc hội ( tương ứng 476 / 477 đại biểu xuất hiện tham gia biểu quyết chấp thuận đồng ý ). [ 39 ]

Kỳ họp thứ 11 – kỳ họp cuối cùng của khóa XIV (từ 24 tháng 3 – 8 tháng 4 năm 2021), Quốc hội kiện toàn 25 chức danh lãnh đạo không tham gia Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 13[40]. Trong đó, bỏ phiếu miễn nhiệm các chức vụ Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đương nhiệm và bầu mới:

Như vậy, nhân sự cấp cao của cả khóa Quốc hội XIV như sau :

Chủ tịch
Các Phó Chủ tịch

Quốc hội khóa XIV đã trải qua 73 luật, bộ luật và 2 pháp lệnh. [ 49 ] [ 50 ] Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV là nhiệm kỳ thành công xuất sắc về mặt ký kết những Hiệp định thương mại tự do ( FTA ), với 3 hiệp định đa phương quan trọng là Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và Hiệp định RCEP. Ngoài ra, còn có Hiệp định thương mại tự do song phương Nước Ta – Vương Quốc Anh ( UKVFTA ) và Hiệp định thương mại tự do song phương ASEAN – Hồng Kông ( Trung Quốc ) ( AHKFTA ) .

Bầu ngày 23 tháng 5 năm 2021. Bầu 499 đại biểu. [ 51 ]

Kỳ họp thứ nhất (từ 20 tháng 7 năm 2021 – 31 tháng 7 năm 2021) bầu:

Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Các trách nhiệm và quyền hạn đơn cử của quốc hội Nước Ta được lao lý theo Điều 70 trong Hiến pháp Nước Ta [ 53 ] [ 54 ] .

Tổ chức của Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Hàng ghế của chủ tọa Quốc hội tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI. Ảnh chụp đầu tháng 6 năm 2006 .

Các cơ quan của Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Sơ đồ tổ chức Quốc hội Việt Nam Sơ đồ tổ chức triển khai Quốc hội Nước Ta

Điều 73 Hiến pháp 2013 quy định: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội”. Luật Tổ chức Quốc hội 2014 sửa đổi 2020 quy định tại Điều 66[55]: “Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là các cơ quan của Quốc hội”. Như vậy ngoài Ủy ban Thường vụ, các Ủy ban khác của Quốc hội gồm:

Ủy ban Thường vụ, Hội đồng dân tộc và những Ủy ban của Quốc hội đều thao tác theo chính sách tập thể và quyết định hành động theo hầu hết, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Hiệu quả hoạt động giải trí của Quốc hội được bảo vệ bằng hiệu suất cao của những kỳ họp Quốc hội, hoạt động giải trí của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và những Ủy ban của Quốc hội, những Đoàn đại biểu Quốc hội và những Đại biểu Quốc hội. Quốc hội quyết định hành động số lượng những Ủy ban và bầu những thành viên của Hội đồng Dân tộc và những Ủy ban của Quốc hội .Ngoài ra, Quốc hội hoàn toàn có thể xây dựng những Ủy ban lâm thời để điều tra và nghiên cứu, thẩm tra một dự án Bất Động Sản hoặc tìm hiểu về một yếu tố nhất định khi thấy thiết yếu .

Các cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoàn toàn có thể xây dựng những Ban trình độ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm giúp Ủy ban Thường vụ trong những công tác làm việc hoạt động giải trí. Ủy ban Thường vụ Quốc hội hiện có 3 cơ quan thường trực là : [ 56 ]

Cơ quan khác[sửa|sửa mã nguồn]

Đây là những cơ quan được Quốc hội xây dựng nhưng hoạt động giải trí độc lập gồm : [ 60 ]

  • Kiểm toán Nhà nước: Là cơ quan thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của nhà nước, do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm cũng như sự giám sát của Quốc hội.
  • Hội đồng Bầu cử Quốc gia: Có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 117 Hiến pháp 2013).

Thành phần nhân sự của Quốc hội là những đại biểu Quốc hội Nước Ta, do cử tri Nước Ta bầu ra theo nguyên tắc đại trà phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Thông qua những đại biểu và trải qua quốc hội, nhân dân Nước Ta sử dụng quyền lực tối cao của mình để định đoạt những yếu tố của quốc gia .

Lãnh đạo Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

quản trị Quốc hội Nước Ta ( tên rất đầy đủ là quản trị Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nước Ta ) là người đứng đầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hiển nhiên đứng đầu Quốc hội, do Quốc hội bầu ra từ những Đại biểu Quốc hội. quản trị Quốc hội không được đồng thời là thành viên của nhà nước. quản trị Quốc hội tiên phong năm 1946 là Nguyễn Văn Tố. quản trị Quốc hội lúc bấy giờ là ông Vương Đình Huệ ( 2021 – nay ) .Dưới quản trị là những Phó quản trị Quốc hội Nước Ta. Số lượng Phó quản trị gồm 4 người. Phó quản trị Quốc hội tiên phong năm 1946 là Phạm Văn Đồng. Quốc hội khóa XV nhiệm kỳ 2021 – 2026 có 4 Phó quản trị, là : Trần Thanh Mẫn ( Phó quản trị Thường trực ), Đỗ Bá Tỵ, Nguyễn Khắc Định và Nguyễn Đức Hải ( từ 2021 ) .Tổng thư ký Quốc hội Nước Ta là người đứng đầu Văn phòng Quốc hội, do Quốc hội bầu ra từ những Đại biểu Quốc hội. Tổng thư ký cũng đồng thời là phát ngôn viên của Quốc hội. Tổng thư ký Quốc hội lúc bấy giờ là ông Bùi Văn Cường ( từ 2021 ) .Từ năm năm nay, quản trị Quốc hội kết thúc nhiệm kỳ vào ngày 30 tháng 3 và khởi đầu nhiệm kỳ mới vào ngày 31 tháng 3 hoặc 01 tháng 4 .

Hoạt động của Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm, kể từ ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa đó đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa sau. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kì, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong. Trong trường hợp đặc biệt quan trọng, nếu được tối thiểu hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết đống ý thì Quốc hội quyết định hành động rút ngắn hoặc lê dài nhiệm kỳ của mình theo ý kiến đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. [ 61 ]Quốc hội Nước Ta họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triệu tập. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoàn toàn có thể triệu tập phiên họp không bình thường theo quyết định hành động của mình, hoặc khi quản trị nước, Thủ tướng nhà nước hoặc khi có tối thiểu 1/3 tổng số Đại biểu Quốc hội nhu yếu [ 62 ]. Các cuộc họp của Quốc hội đều công khai minh bạch, một số ít được truyền hình trực tiếp, phát sóng toàn nước và ra quốc tế. Quốc hội Nước Ta cũng hoàn toàn có thể họp kín theo đề xuất của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quản trị nước, Thủ tướng nhà nước hoặc của tối thiểu 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội [ 62 ]. Thành viên của nhà nước không phải là đại biểu Quốc hội được mời tham gia những phiên họp toàn thể của Quốc hội [ 63 ]. Đại diện cơ quan Nhà nước, tổ chức triển khai xã hội, tổ chức triển khai kinh tế tài chính, đơn vị chức năng vũ trang, cơ quan báo chí truyền thông, công dân và khách quốc tế hoàn toàn có thể được mời dự những phiên họp công khai minh bạch của Quốc hội [ 63 ] .

Lấy phiếu tin tưởng[sửa|sửa mã nguồn]

Mối tương quan giữa Đảng Cộng sản với Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Vấn đề tương quan đến sự độc lập Quốc hội và công dụng chấp hành là cơ cấu tổ chức giữa Quốc hội và Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo hiến pháp và pháp luật nhà nước, những đại biểu quốc hội không có nghĩa vụ và trách nhiệm phải tuân theo những thông tư của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, quản trị Quốc hội được đề cử bởi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, và phần đông những đại biểu quốc hội là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam ( lúc bấy giờ là khoảng chừng 90 % ) [ 64 ] và họ phải tuân thủ những thông tư của đảng. Cũng theo giáo sư và cựu đại biểu Nguyễn Minh Thuyết thì mọi việc đã do Trung ương Đảng Cộng sản quyết định hành động rồi, nên Quốc hội bị hạn chế không có toàn quyền Để ý đến nghị luận. Hơn nữa vì đại đa số Đại biểu Quốc hội là đảng viên nên cũng không hề làm trái với nghị quyết của Trung ương Đảng. [ 65 ] Là một vương quốc đơn đảng với một quốc hội đơn viện, quan điểm của Quốc hội Nước Ta là sự phản ánh hầu hết những quyết định hành động từ Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong những yếu tố quan trọng của quốc gia .Theo ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nước Ta, trước đây, nhà nước Nước Ta phần đông chỉ trình những báo cáo giải trình lên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trước mà không trình Quốc hội Nước Ta. Chỉ sau khi Bộ Chính trị Kết luận thì báo cáo giải trình mới được trình Quốc hội. Tuy nhiên, quyền lực tối cao của Quốc hội trong thời hạn gần đây đã được cải tổ đáng kể, như từ trước khóa 14, Bộ Chính trị đã cho phép Đảng đoàn Quốc hội hoặc Ủy ban kinh tế tài chính của Quốc hội có quan điểm trước so với những yếu tố tương quan. [ 66 ]

Tổ chức của Đảng đoàn Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

Vai trò chỉ huy rõ ràng nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam so với Quốc hội Nước Ta là cơ quan Đảng đoàn Quốc hội. Đây là một tổ chức triển khai của Đảng Cộng sản trong Quốc hội, gồm những đảng viên nắm vai trò trọng điểm trong Quốc hội như quản trị, Phó quản trị, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đảng đoàn Quốc hội chịu sự chỉ huy, chỉ huy trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Các chức vụ Bí thư, Phó Bí thư và những Ủy viên Đảng đoàn đều do Bộ Chính trị chỉ định .

Về danh nghĩa, Đảng đoàn Quốc hội là một tổ chức có tư cách pháp nhân có con dấu độc lập.[cần dẫn nguồn] Trên thực tế, các hoạt động của Quốc hội đều được Bộ Chính trị và Ban Bí thư định hướng gián tiếp thông qua Đảng đoàn Quốc hội.[cần dẫn nguồn]

Thành viên Đảng đoàn Quốc hội hiện gồm : quản trị, những Phó quản trị, những ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội ; thành viên khác ( nếu có ) do Đảng đoàn đề xuất, Bộ Chính trị quyết định hành động. quản trị Quốc hội làm Bí thư Đảng đoàn, một Phó quản trị Quốc hội làm Phó Bí thư Đảng đoàn .

Nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội[sửa|sửa mã nguồn]

  1. Lãnh đạo Quốc hội thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.
  2. Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức, cán bộ; quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị.
  3. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của Quốc hội.
  4. Được triệu tập đảng viên hoặc đại diện đảng viên ở các đoàn đại biểu Quốc hội để bàn chủ trương và biện pháp thực hiện nghị quyết của Đảng trong Quốc hội.
  5. Báo cáo và kiến nghị với cấp ủy có thẩm quyền biện pháp xử lý đối với đảng viên là đại biểu Quốc hội vi phạm nguyên tắc kỷ luật Đảng trong hoạt động Quốc hội.
  6. Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những đề xuất và các quyết định của Đảng đoàn.
  7. Phối hợp với Đảng ủy khối và Đảng ủy cơ quan xây dựng Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội trong sạch, vững mạnh.

Vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Đảng đoàn Quốc hội trình Bộ Chính trị :

  • Những vấn đề Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có ý kiến khác với ý kiến Bộ Chính trị trước khi Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua (nếu có).
  • Về định hướng trọng tâm hoạt động giám sát trong cả nhiệm kỳ của Quốc hội.
  • Về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi có sai phạm.
  • Về kết quả giám sát, các kiến nghị, đề xuất sau giám sát đối với việc thực hiện các công trình trọng điểm quốc gia, các chủ trương lớn của Đảng có ảnh hưởng đến kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; kiến nghị xử lý các vi phạm, kết luận về trách nhiệm của các cá nhân thuộc diện Bộ Chính trị quản lý.
  • Kiến nghị xử lý về trách nhiệm cá nhân cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị quản lý khi có vi phạm trong hoạt động Quốc hội.
  • Những vấn đề khác Đảng đoàn Quốc hội thấy cần xin ý kiến Bộ Chính trị.

Đảng đoàn Quốc hội trình Ban Bí thư yêu cầu giải quyết và xử lý về nghĩa vụ và trách nhiệm cá thể cán bộ thuộc diện Ban Bí thư quản trị khi có vi phạm trong hoạt động giải trí Quốc hội. [ 67 ] Bí thư Đảng đoàn Quốc hội hiện là Vương Đình Huệ, phó bí thư là Trần Thanh Mẫn .

Năm 1988, khi xuất bản cuốn sách “Asia-Pacific Legal Development”, Giáo sư Gerry Ferguson, trưởng khoa quan hệ pháp luật vùng châu Á – Thái Bình Dương thuộc đại học Victoria, Canada từng nhận định về Quốc hội Việt Nam là: “từ năm 1945, Quốc hội Việt Nam hoạt động như là một cơ quan “gật đầu” (rubber stamp) mọi quyết định được đưa ra trước từ các ban cao nhất thuộc đảng hợp pháp độc nhất (Đảng Cộng sản Việt Nam)“.[68] Tuy nhiên, điều này vốn cũng thể hiện đặc điểm của một đảng cầm quyền nói chung (đối với Việt Nam Đảng Cộng sản là đảng nắm quyền duy nhất), khi mà cũng giống như các nước trên thế giới, mọi quyết định từ nghị viện đều là sự thể hiện quan điểm của đảng cầm quyền (tức phe chiếm đa số trong nghị viện đó).

Theo nhà nghiên cứu và phân tích David Koh của Viện Nghiên cứu Khu vực Đông Nam Á ở Nước Singapore thì dù Quốc hội đã mở màn bỏ phiếu tin tưởng chính phủ nước nhà từ năm 2013 nhưng vẫn không xử lý được những xích míc trong chính sách chính trị Nước Ta. Ví dụ như nếu Quốc hội bất tín nhiệm nhân sự trong cơ quan chính phủ nhưng Đảng vẫn tin tưởng thì sao ? Cuộc bỏ phiếu vẫn không có ảnh hưởng tác động nào. [ 69 ]

Về hoạt động làm luật, luật sư Nguyễn Minh Tuấn, giảng viên khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội nhận xét: “Quốc hội nắm quyền lập pháp, nhưng thực tế phần lớn các dự thảo luật là do Chính phủ và các Bộ ngành soạn thảo, đệ trình.“[70] Nói về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội lý giải câu hỏi tại sao tới 95% các văn bản pháp luật là do Chính phủ soạn thảo và trình Quốc hội thông qua là vì: “Quyền lập pháp không phải là quyền làm luật, mà là quyền cho phép ban hành pháp luật. Đó là lý do tại sao Chính phủ trình tới 95% văn bản luật, Chính phủ có nhu cầu nhiều hơn về pháp luật, muốn điều chỉnh hành vi thì phải có luật, sau đó trình sang Quốc hội. Quốc hội sẽ xem xét dựa trên lợi ích của cử tri, của người dân với luật đó, xem xét luật đó có thể tạo điều kiện cho Chính phủ, các bộ ngành nhưng có tạo điều kiện cho người dân hay không. Do vậy, quyền lập pháp ở đây được hiểu là quyền thông qua luật, chứ không phải quyền làm luật.” [71]

Trong phiên họp quốc hội ngày 26/3/2021, nói về tính cục bộ địa phương trong Quốc hội, đại biểu Lưu Bình Nhưỡng phát biểu: “Quốc hội cần công bằng trong phân bổ nguồn lực và trao quyền lực, kiểm soát quyền lực, không được ngủ mê trên quyền lực của nhân dân, đặc biệt không được biến Quốc hội thành căn phòng kín để gom góp lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân và chia chác quyền lực, chia chác nguồn lực của đất nước[72]”.

  • Fall, Bernard. The Viet Minh Regime. Ithaca, NY: Cornell University Press, 1956.
  • Huy Đức. Bên thắng cuộc II: Quyền bính. Boston, MA: Osinbook, 2012.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories