Karl Marx – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

” Marx ” đổi hướng tới đây. Đối với những định nghĩa khác, xem Marx ( khuynh hướng )

Karl Heinrich Marx (phát âm tiếng Đức: [kaːɐ̯l ˈmaːɐ̯ks], thường được phiên âm tiếng Việt là Các Mác; 5 tháng 5 năm 1818 – 14 tháng 3 năm 1883)[5] là một nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà xã hội học, nhà lý luận chính trị, nhà báo và nhà cách mạng người Đức gốc Do Thái.[6]

Karl Marx sinh ra tại Trier, Đức. Khi lên đại học, ông theo học ngành luật và triết học. Ông kết hôn với Jenny von Westphalen vào năm 1843. Do những hoạt động chính trị của mình, Marx trở thành người không quốc tịch và phải sống lưu vong cùng vợ và con tại Luân Đôn trong nhiều thập kỷ. Tại đây, ông tiếp tục phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản cùng với Friedrich Engels và cho xuất bản nhiều tác phẩm. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Tuyên ngôn của Đảng cộng sản và 3 tập Tư bản. Những quan điểm chính trị và triết học của ông làm ảnh hưởng lớn đến lịch sử tri thức, kinh tế và chính trị của thế giới sau này.[7]

Những lý luận phê phán của Marx về xã hội, kinh tế và chính trị – gọi chung là chủ nghĩa Marx cho rằng lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong chủ nghĩa tư bản, điều đó xuất hiện giữa giai cấp thống trị (được biết đến như giai cấp tư sản) và giai cấp lao động (được biết đến như giai cấp vô sản) sử dụng những phương tiện này thông qua việc sử dụng sức lao động của mình để đổi lấy tiền lương. Các tư tưởng trên được gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử, Marx tiên đoán rằng như những hệ thống kinh tế – xã hội trước đó, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những cuộc khủng hoảng nội bộ dẫn tới sự tự sụp đổ trong tương lai và sẽ thay thế bởi một hệ thống mới có tên là chủ nghĩa xã hội.

Đối với Marx, sự đối kháng giai cấp bên trong chủ nghĩa tư bản bắt nguồn một phần là do sự thiếu không thay đổi và thực chất dễ khủng hoảng cục bộ của nó, sẽ thôi thúc sự tăng trưởng ý thức của giai cấp công nhân, dẫn tới việc họ sẽ chinh phục quyền lực tối cao chính trị của giai cấp thống trị và sau cuối sẽ hình thành một xã hội không giai cấp gọi là xã hội cộng sản, là một xã hội mà mối quan hệ giữa những cá thể trong đó không có nhà nước, giai cấp, thứ bậc, hoặc quyền sở hữu cá thể so với những phương tiện đi lại sản xuất. [ 8 ] Marx không ngừng thôi thúc cho tiến trình này được diễn ra, ông cho rằng giai cấp công nhân nên thực thi hành vi cách mạng có tổ chức triển khai để lật đổ chủ nghĩa tư bản và mang đến sự giải phóng về kinh tế tài chính – xã hội .Marx được nhìn nhận là một trong những nhân vật có tầm ảnh hưởng tác động lớn nhất trong lịch sử dân tộc loài người, những tác phẩm của ông đã nhận được lời tán dương lẫn chỉ trích. Ông được xem là học giả có tác động ảnh hưởng nhất trong lịch sử dân tộc [ 9 ]. Tác phẩm của ông về kinh tế tài chính đã đặt nền tảng cho phần đông sự hiểu biết hiện tại về lao động và mối quan hệ của nó với vốn và những tư tưởng kinh tế tài chính tiếp theo. [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] Nhiều tri thức, hiệp hội lao động, nghệ sĩ và đảng phái chính trị trên khắp quốc tế chịu tác động ảnh hưởng từ những tác phẩm của Marx, sau đó họ bổ trợ vào tư tưởng của Marx nhiều sửa đổi hoặc kiểm soát và điều chỉnh theo sáng tạo độc đáo của riêng họ. Marx được coi là một trong những ” kiến trúc sư chính của khoa học xã hội văn minh “. [ 13 ] [ 14 ]

Marx chào đời ngày 5 tháng 5 năm 1818, cha là Heinrich Marx ( 1778 – 1838 ) và mẹ là Henriette Pressburg ( 1788 – 1863 ). Ông sinh ra tại Brückengasse 664 ở Trier, một thị xã sau đó là một phần của tỉnh Lower Rhine, Vương quốc Phổ. [ 15 ] [ 16 ] Marx là một người Do Thái. Ông ngoại ông là một giáo sĩ Do Thái giáo người Hà Lan, trong khi nội ông có nhiều người làm giáo sĩ của vùng Trier từ năm 1723, và ông nội ông là Meier Halevi Marx cũng là một giáo sĩ. Cha ông, được biết tới với tên Herschel, người lần tiên phong trong dòng họ được giáo dục thế tục. Ông trở thành một luật sư và sống đời sống trung lưu. Gia đình ông chiếm hữu một số ít khu vườn nho ở Moselle. Trươc khi sinh con, và sau khi sự bài Do Thái quay trở lại vùng Rhineland, Herschel chuyển từ Do Thái giáo sang gia nhập phái Phúc Âm nhà thời thánh Prussia. [ 17 ]

Nơi sinh của Marx tại Trier, mái ấm gia đình ông ở 2 phòng tầng một và 3 phòng ở tầng 2. Được mua bởi Đảng Dân chủ Xã hội Đức trong năm 1928, giờ đây là nhà kho lưu trữ bảo tàng tưởng niệm tới ông .Là một người phi tôn giáo, Heinrich là một thành viên của trào lưu Khai sáng, học hỏi nhiều ý tưởng sáng tạo của những nhà triết học Immanuel Kant và Voltaire. Với tư cách là người theo chủ nghĩa tự do cổ xưa, ông đã tham gia ủng hộ hiến pháp và cải cách tại Phổ, thời gian đó theo chế độ quân chủ tuyệt đối. [ 18 ] Trong năm 1815, Heinrich Marx đã khởi đầu thao tác như một luật sư và trong năm 1819 đã chuyển mái ấm gia đình tới một căn nhà 10 phòng gần Porta Nigra. [ 19 ] Vợ ông, Henriette Pressburg, là một người Hà Lan theo Do Thái giáo, xuất thân từ một mái ấm gia đình kinh doanh thương mại phát đạt mà sau đã xây dựng công ty Philips Electronics. Chị của bà Sophie Pressburg ( 1797 – 1854 ) kết hôn với Lion Philips ( 1794 – 1866 ) và là bà của hai người cháu Gerard Philips và Anton Philips và bà cố của Frits Philips. Lion Philips là một người sản xuất thuốc lá Hà Lan phong phú và là một nhà tư bản công nghiệp, người mà Karl và Jenny Max sẽ sau này liên tục đến cậy nhờ vay tiền khi họ bị lưu đày ở Luân Đôn. [ 20 ]Chỉ một chút ít thông tin được biết về tuổi thơ của Marx. [ 21 ] [ 22 ] Là con thứ ba của mái ấm gia đình có 9 bạn bè, ông trở thành người con cả khi anh trai ông mất trong năm 1819. Marx và những người bạn bè còn lại của ông, Sophie, Hermann, Henriette, Louise, Emilie and Caroline, được rửa tội trong nhà thời thánh Lutheran vào tháng 8 năm 1824 và mẹ của họ cũng cải theo đạo này vào tháng 12 năm 1825. [ 23 ] Marx đã được cha ông giáo dục tại nhà cho tới năm 1830, khi ông nhập học trường Trung học Trier, với hiệu trưởng là Hugo Wyttenbach, một người bạn của cha ông. Bằng việc thuê nhiều người theo chủ nghĩa tự do làm giáo viên, Wyttenbach đã phải hứng chịu sự tức giận của chính phủ nước nhà bảo thủ địa phương. Sau đó, công an đã đột kích trường học năm 1832 và mày mò những tài liệu ưng ý chủ nghĩa tự do đã được phân phát cho những học viên. Coi việc phân phát những tài liệu này như một hành vi kích động phản loạn, chính quyền sở tại đã thực thi cải cách và sửa chữa thay thế nhiều nhân viên cấp dưới của trường trong suốt thời hạn đi học của Marx tại đây. [ 24 ]

Karl Marx khi còn trẻVào tháng 10 năm 1835 ở tuổi 17, Marx tới Đại học Bonn, ông mong ước học triết học và văn học, nhưng cha ông khăng khăng chọn môn Luật như một nghành nghề dịch vụ thực tiễn hơn. [ 25 ] [ 26 ] Do điều kiện kèm theo tương quan tới như một chứng ngực thở yếu, Marx được miễn nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược khi ông 18 tuổi. Trong khi tại Đại học Bonn, Marx gia nhập câu lạc bộ Poets ( câu lạc bộ văn nghệ sĩ ), một nhóm tiềm ẩn tư tưởng chính trị cấp tiến bị công an theo dõi. [ 27 ] Marx cũng gia nhập Câu lạc bộ quán nhậu Tavern và sau đó trở thành đồng quản trị của câu lạc bộ. [ 28 ] Tháng 8 năm 1836 ông đã tham gia đấu kiếm với một sinh viên trường ĐH Borussian Korps để xử lý xích míc. [ 29 ] Tuy nhiên điểm số của ông kì tiên phong vẫn tốt, chẳng bao lâu điểm số bị kém hơn, dẫn tới việc cha ông ép Marx chuyển tới học tại trường Đại học Berlin. [ 30 ]

Sau khi tốt nghiệp Trung học Trier vào mùa thu năm 1835, Marx vào Đại học Bonn theo học luật năm 17 tuổi. Tại đây, ông tham gia nhóm uống rượu Quán Trier và từng là chủ nhiệm câu lạc bộ ; vì vậy việc học tập của ông cũng bị ảnh hưởng tác động. Marx chăm sóc đến điều tra và nghiên cứu triết học và văn học, nhưng cha không được cho phép điều đó vì không tin rằng Marx sẽ sống sung túc trong tương lai nếu làm một học giả .

Những năm tiếp theo, cha của Marx buộc ông chuyển sang Đại học Friedrich-Wilhelms ở Berlin. Khi đó, Marx viết nhiều thơ và tiểu luận liên quan đến cuộc sống, sử dụng ngôn ngữ triết học nhận được từ người cha thần luận tự do của mình, chẳng hạn tác phẩm “Thượng đế”. Trong suốt giai đoạn này, ông tiếp thu triết học vô thần của những người Hegel cánh tả (hay Hegel trẻ). Marx đạt học vị Tiến sĩ năm 1841 với luận án: “Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Epicurus với triết học tự nhiên của Democritus“.

Marx và những người Hegel trẻ[sửa|sửa mã nguồn]

Ở Berlin, Marx chủ yếu quan tâm đến triết học. Ông tham gia một nhóm sinh viên và giáo sư trẻ gọi là những “người Hegel trẻ”. Đối với nhiều người trong số họ, phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, mặc dù chỉ với nội dung lý thuyết, đã cung cấp một vũ khí mạnh mẽ cho việc phê bình nền chính trị và tôn giáo lúc đó. Một số thành viên đã thấy sự tương tự giữa triết học Aristote và triết học Hegel. Một người Hegel trẻ khác, Max Stirner, đã áp dụng sự phê bình Hegel và cho rằng những người theo chủ thuyết vô thần thật sự là những người “ngoan đạo” (trong cuốn Der Einzige und sein Eigenthum). Quan điểm của ông không được đồng tình bởi hầu hết các đồng sự; nhưng dù sao, cuốn sách của Stirner là lý do chính để Marx từ bỏ quan điểm của Ludwig Andreas Feuerbach để phát triển các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một trong những giáo sư của Marx là Nam tước Westphalen, cha của Jenny von Westphalen, vợ của Marx sau này.

Marx tại Paris và Brussels[sửa|sửa mã nguồn]

Vì những điều kiện kiểm duyệt tại Phổ, Marx rút khỏi ban biên tập của tờ Rheinische Zeitung, và dự định xuất bản, cùng với Arnold Ruge, một nhà cách mạng Đức khác, Deutsch-Französische Jahrbücher,[31] (Biên niên sử Đức-Pháp) với trụ sở tại Paris, và tới đây vào cuối tháng 10 năm 1843. Paris ở thời điểm đó là nơi ở và hoạt động của nhiều nhà cách mạng Đức, Anh, Ba Lan và Italia. Ở Paris, ngày 28 tháng 8 năm 1844, tại Café de la Régence ở Place du Palais ông gặp Friedrich Engels, người sẽ trở thành người bạn và đồng sự quan trọng nhất trong cả cuộc đời ông. Engels mới chỉ gặp Marx một lần trước đó (và ngắn ngủi) tại văn phòng của Rheinische Zeitung năm 1842;[32] ông tới Paris để giới thiệu với Marx cuốn sách mới xuất bản của mình, Điều kiện của giai cấp lao động tại Anh Quốc năm 1844.[33] Cuốn sách này đã thuyết phục Marx rằng giai cấp lao động sẽ là tác nhân và công cụ của cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử.

Sau khi Deutsch-Französische Jahrbücher thất bại, Marx, sống tại rue Vaneau, đã viết cho tờ báo cực đoan nhất trong mọi tờ báo Đức tại Paris, và cả ở châu Âu, Vorwärts được thành lập và điều hành bởi một hội kín tên là Liên hiệp của sự Công bằng. Khi không viết, Marx nghiên cứu lịch sử Cách mạng Pháp và đọc Proudhon.[34] Ông cũng bỏ nhiều thời gian nghiên cứu một khía cạnh của cuộc sống mà ông chưa từng tìm hiểu trước đó: một tầng lớp vô sản lớn ở thành thị.

“ [ Cho tới nay chỉ Open đa phần tại những khu vực ĐH … ] Sự đống ý giật mình của Marx với lý tưởng vô sản hoàn toàn có thể được quy trực tiếp ( hoàn toàn có thể sự ưng ý đó của những nhân vật cộng sản Đức thời kỳ đầu như Weitling [ 35 ] ) cho những cuộc tiếp xúc tiên phong với những tri thức [ và sách vở ] xã hội tại Pháp. [ 36 ] ”

Phiên bản tiên phong của Tuyên ngôn Cộng sản, được xuất bản bằng tiếng Đức năm 1848

Marx đã đánh giá lại mối quan hệ của mình với Những người Hegel trẻ, và trong hình thức một bức thư trả lời về chủ nghĩa vô thần của Bauer viết Về vấn đề Do Thái. Tiểu luận này chủ yếu gồm một sự phê bình các ý tưởng hiện thời về các quyền dân sự và nhân quyền và giải phóng con người; nó cũng bao gồm nhiều luận điểm chỉ trích đạo Do Thái và cả Thiên chúa giáo từ quan điểm giải phóng xã hội. Engels, một người cộng sản nhiệt thành, đã khơi dậy sự quan tâm của Marx với tình hình của giai cấp lao động và hướng sự chú ý của Marx vào kinh tế. Marx trở thành một người cộng sản và đã đặt ra các quan điểm của mình trong một loạt các bài viết được gọi là Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844, không được xuất bản cho tới tận thập niên 1930. Trong Bản thảo, Marx vạch ra một quan niệm nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản, bị ảnh hưởng bởi triết lý của Ludwig Feuerbach và dựa trên sự đối lập giữa bản chất xa lạ của lao động dưới chủ nghĩa tư bản và một xã hội cộng sản trong đó con người được tự do phát triển năng khiếu của mình trong sản xuất tập thể.

Tháng 1 năm 1845, sau khi Vorwärts thể hiện sự ủng hộ nhiệt thành của mình với nỗ lực ám sát vua nước Phổ là Frederick William IV, chính quyền Pháp ra lệnh cho Marx, cùng nhiều người khác rời Paris, ông và Engels chuyển đến Brussels.

Marx chú tâm nghiên cứu kỹ lịch sử, và cùng với Engels đưa ra ý tưởng chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt trong một bản thảo (được xuất bản sau khi ông mất với tên gọi Hệ tư tưởng Đức), phát biểu luận cương căn bản của nó rằng “bản chất của các cá nhân phụ thuộc vào các điều kiện vật chất quyết định sức sản xuất của họ“. Marx đã lần theo lịch sử nhiều mô hình sản xuất và phán đoán sự sụp đổ của mô hình sản xuất khi đó – chủ nghĩa tư bản công nghiệp – và sự thay thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản. Đây là tác phẩm lớn đầu tiên mà các học giả coi là giai đoạn sau của ông, từ bỏ chủ nghĩa nhân đạo bị ảnh hưởng bởi Feuerbach trong các tác phẩm thời kỳ đầu.

Sau đó, Marx viết Sự khốn cùng của triết học (1847), nó đáp lại cho Triết học của sự khốn cùng của Pierre-Joseph Proudhon, một người ủng hộ chủ nghĩa xã hội vô chính phủ Pháp và là một nhà phê bình tư tưởng xã hội Pháp. Các tác phẩm này đặt ra nền tảng cho tác phẩm nổi tiếng nhất của Marx và Engels, Tuyên ngôn Cộng sản, được xuất bản lần đầu ngày 21 tháng 2 năm 1848 như bản tuyên ngôn của Liên đoàn Cộng sản, một nhóm nhỏ những người Cộng sản châu Âu chịu ảnh hưởng của Marx và Engels. Cuối năm ấy, châu Âu xuất hiện một loạt các cuộc phản kháng, nổi dậy và bất ổn bạo lực được gọi là Các cuộc cách mạng năm 1848. Chính quyền Bỉ trục xuất Marx khỏi nước này.[37]

Tháng 2 năm 1848 một phong trào cấp tiến chiếm quyền lực của Vua Louis-Philippe tại Pháp và mời Marx quay trở lại Paris, nơi ông chứng kiến cuộc Nổi dậy cách mạng những ngày tháng 6. Khi chính quyền này sụp đổ năm 1849, Marx quay trở lại Cologne và tuyên bố Neue Rheinische Zeitung (“New Rhenish Newspaper”). Trong thời gian tồn tại của nó ông hai lần bị đưa ra xét xử, ngày 7 tháng 2 năm 1849 bởi một lỗi nhỏ của báo chí, và vào ngày 8 với tội danh xúi giục nổi dậy vũ trang. Cả hai lần ông đều được trắng án. Tờ báo nhanh chóng bị đàn áp và Marx quay trở lại Paris, nhưng lại bị trục xuất. Lần này ông sang tị nạn tại London.

Sống tại London[sửa|sửa mã nguồn]

Marx chuyển tới London tháng 5 năm 1849 và ở lại đó trong phần còn lại của cuộc đời. Trong vài năm đầu ông và gia đình sống rất nghèo khổ. Ông làm việc một thời gian ngắn như một cộng tác viên cho tờ New York Tribune năm 1851.[38] Ông xin nhập quốc tịch Anh nhưng bị chính quyền sở tại bác bỏ vì coi ông là “một người Đức chuyên xúi bẩy”, và vận động cho tư tưởng cộng sản nên “khó có thể thành kẻ trung thành với Nhà Vua”, và không có thu nhập. Gia đình ông phải sống dựa vào tiền trợ cấp từ Friedrich Engels. Marx cũng đã từ bỏ quốc tịch Phổ và không được chính phủ Phổ cho tái nhập tịch.[39]

Tại London Marx chú tâm vào hai hoạt động: tổ chức cách mạng, và cố gắng tìm hiểu kinh tế chính trị và chủ nghĩa tư bản. Ông đã đọc nghiên cứu của Engels về giai cấp lao động. Trong thời gian này, Marx tạm ngừng nghiên cứu triết học và hoạt động cho Quốc tế cộng sản I. Ông được bầu vào Tổng Hội đồng của tổ chức này tại kỳ họp đầu tiên của nó năm 1864. Ông hoạt động đặc biệt tích cực để chuẩn bị cho các Đại hội hàng năm của Quốc tế cộng sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại phe vô chính phủ của Mikhail Bakunin (1814 – 1876). Dù Marx chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, việc chuyển trụ sở của Tổng Hội đồng từ London sang New York năm 1872, được Marx ủng hộ, khiến Quốc tế cộng sản suy tàn. Sự kiện chính trị quan trọng nhất trong thời gian tồn tại của Quốc tế cộng sản là Công xã Paris năm 1871 khi các công dân Paris nổi dậy chống chính phủ và chiếm giữ thành phố trong hai tháng. Về cuộc đàn áp đẫm máu với cuộc nổi dậy này, Marx đã viết một trong những cuốn sách nhỏ nổi tiếng nhất của ông, Cuộc nội chiến ở Pháp, với lập trường bảo vệ Công xã.

Với những thất bại và tan rã liên tục của các cuộc cách mạng và phong trào công nhân, Marx cũng tìm cách tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, và giành rất nhiều thời gian trong Thư viện Anh nghiên cứu và phê bình các tác phẩm của các nhà kinh tế chính trị và dữ liệu kinh tế. Tới năm 1857, ông đã có hơn 800 trang ghi chú và tiểu luận ngắn về tư bản, đất đai, lương lao động, nhà nước, thương mại nước ngoài và thị trường thế giới, mãi tới năm 1941 tác phẩm này mới được xuất bản, dưới tựa đề Grundrisse. Năm 1859, Marx xuất bản Đóng góp vào phê bình kinh tế chính trị, tác phẩm kinh tế nghiêm túc đầu tiên của ông. Đầu những năm 1860 ông làm việc để soạn ra ba tập lớn, Các lý thuyết giá trị thặng dư, bàn về các nhà lý thuyết kinh tế chính trị, đặc biệt là Adam Smith và David Ricardo. Tác phẩm này được xuất bản sau khi ông mất với sự biên tập của Karl Kautsky và thường được coi là tập thứ tư của cuốn Tư bản, và tạo nên một trong những chuyên luận đầy đủ đầu tiên về lịch sử tư tưởng kinh tế. Năm 1867, khá lâu sau dự định, tập đầu của Tư bản được ấn hành, một tác phẩm phân tích các quá trình sản xuất tư bản. Trong tác phẩm này, Marx trình bày chi tiết lý thuyết giá trị lao động của mình và ý tưởng về giá trị thặng dư và bóc lột mà ông cho là sẽ chắc chắn dẫn tới sự sụt giảm trong tỷ lệ lợi nhuận và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản. Các Tập II và III vẫn chỉ ở dạng bản thảo và Marx tiếp tục làm việc với chúng trong suốt cả cuộc đời và chỉ được Engels xuất bản sau khi ông mất.

Trong thập kỷ cuối cùng của cuộc đời mình, sức khoẻ của Marx suy sụp và ông không còn khả năng duy trì nỗ lực hoàn thành các tác phẩm quan trọng của ông. Ông đã cố gắng tìm cách bình luận về căn bản chính trị đương thời, đặc biệt là chính trị tại Đức và Nga. Cuốn Phê phán cương lĩnh Gotha của ông phản đối khuynh hướng của những người theo ông là Wilhelm Liebknecht (1826 – 1900) và August Bebel (1840 – 1913) để thích ứng với chủ nghĩa tư bản nhà nước của Ferdinand Lassalle về lợi tức trong một đảng xã hội thống nhất. Năm 1880, vợ ông là Jenny von Westphalen-Marx qua đời vì ung thư gan. Năm 1883, Marx qua đời vì bệnh viêm phổi được chôn cất ở khu cho người vô thần trong nghĩa trang Highgate, London.[39]

Nghiên cứu về toán học[sửa|sửa mã nguồn]

Trong lời giới thiệu bản thân năm 1885 của cuốn “Chống Duhrinh”, Engels có viết: “Nhưng từ khi Karl Marx qua đời, thời giờ của tôi phải ngừng công việc nghiên cứu của tôi lại. Lúc bấy giờ tôi đành tạm bằng lòng với những phác thảo đã đưa ra trong sách này và đợi sau này có dịp thì sẽ tập hợp và công bố những kết quả đã thu nhận được, có thể là cùng một lúc với những bản thảo toán học rất quan trọng do Marx để lại.”[40]

Cuốn tuyển tập Mathematical manuscripts of Karl Marx (tạm dịch: Các công trình Toán học của Karl Marx) gồm hầu hết các tìm hiểu của Marx về nền tảng của phép tính vi tích phân được viết khoảng những năm 1873–1883[41]. Một phiên bản Tiếng Nga được Sofya Yanovskaya dịch và biên tập lại cuối cùng cũng được xuất bản năm 1968[42], và sao đó bản dịch sang tiếng Anh (dài hơn 300 trang) được xuất bản vào năm 1983[43][44]. Các học giả cho rằng dường như Marx muốn sử dụng công cụ của phép tính tích phân để nghiên cứu định lượng về kinh tế sâu sắc hơn[45].

Glivenko [ 46 ] cho rằng cách tiếp cận của Marx về phép tính vi tích phân tương tự như như cách của Hadamard trong cuốn Cours d’Analyse xuất bản 50 năm sau đó. Kennedy [ 47 ] cũng đã biện giảng về cách hiểu của Marx về phép vi phân như một quy trình biện chứng .

Karl Marx và Jenny Marx đã có bảy người con sau, liệt kê theo thứ tự :

Tư tưởng của Marx[sửa|sửa mã nguồn]

Karl-Marx-Stadt (Thành phố Karl Marx), Một tượng đài Karl Marx tại thành phố Chemnitz nước Đức, trước kia là thành phố ( Thành phố Karl Marx ), Đông ĐứcFriedrich Engels có ghi nhận trong ” Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ xưa Đức ” :

“Từ sự tan rã của trường phái Hegel cũng còn nảy ra một khuynh hướng khác, khuynh hướng duy nhất thực sự đem lại kết quả – khuynh hướng này gắn liền với tên tuổi của Marx… Ở đây, xin cho phép tôi trình bày một giải thích có liên quan đến cá nhân tôi… đại bộ phận các tư tưởng chỉ đạo cơ bản, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế và lịch sử, và đặc biệt là trong việc trình bày các tư tưởng ấy thành những công thức chặt chẽ cuối cùng, thì đó là phần của Marx. Phần đóng góp của tôi – nhiều lắm là trừ một vài ngành chuyên môn – Marx vẫn có thể làm được mà không cần có tôi. Nhưng điều mà Marx đã làm thì tôi không thể làm được. Marx hơn tất cả chúng tôi, nhìn xa hơn, rộng hơn và nhanh hơn tất cả chúng tôi. Marx là một thiên tài… Nếu không có Marx, thì lý luận thật khó mà được như ngày nay, vì vậy gọi lý luận đó bằng tên của Marx là điều chính đáng”.[49]

Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa Marx đã đương đầu với nhiều đợt công kích từ những tư tưởng khác.[50] Nhà học giả về Marx người Mỹ Hal Draper từng lưu ý, “có ít nhà tư tưởng trong lịch sử hiện đại có tư tưởng bị hiểu nhầm tai hại như vậy, bởi những người Marxist và cả những người chống Marxist.” Di sản tư tưởng của Marx đã bị tranh cãi dữ dội giữa nhiều khuynh hướng và mỗi bên đều coi mình là người giải thích chính xác nhất về Marx, gồm cả (nhưng không hạn chế bởi) Chủ nghĩa Lenin, Chủ nghĩa Trotsky, Chủ nghĩa Mao, Chủ nghĩa Luxemburg, và Chủ nghĩa Marx tự do.

Chịu ảnh hưởng tác động[sửa|sửa mã nguồn]

Tư tưởng của Marx bộc lộ những ảnh hưởng tác động mạnh từ :

Quan điểm của Marx về lịch sử vẻ vang, sẽ được gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử vẻ vang ( bị sửa đổi theo cách gây tranh cãi như triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng bởi Engels và Lenin ) rõ ràng cho thấy ảnh hưởng tác động của chứng minh và khẳng định của Hegel rằng một người phải quan sát thực tiễn ( và lịch sử vẻ vang ) theo cách biện chứng. Hegel tin rằng lịch sử dân tộc loài người có đặc trưng bởi sự vận động và di chuyển từ sự tan rã tới tổng thể và toàn diện và trong thực tiễn ( cũng là sự chuyển dời theo hướng ngày càng hài hòa và hợp lý hơn ). Sự tăng trưởng tiến hoá này của sự Tuyệt đối ( the Absolute ) tương quan tới sự tích tụ từ từ mang tính cách mạng lên tới đỉnh điểm là sự nhảy vọt cách mạng — những sự không ổn định theo tính chu kỳ luân hồi chống lại thực trạng nguyên trạng đang hiện hữu. Ví dụ, Hegel phản đối can đảm và mạnh mẽ chính sách nô lệ ở Hoa Kỳ trong thời hạn cuộc sống mình, và ông đã dự báo một thời gian khi những vương quốc Thiên chúa giáo sẽ vô hiệu nó khỏi nền văn minh của mình .

Sự chỉ trích của Marx với chủ nghĩa duy tâm triết học Đức, kinh tế chính trị Anh, và chủ nghĩa xã hội Pháp dựa chủ yếu vào sự ảnh hưởng của Feuerbach và Engels. Hegel đã suy nghĩ trong các khái niệm duy tâm, và Marx tìm cách viết lại các biện chứng theo các khái niệm duy vật. Ông viết rằng chủ nghĩa Hegel đặt sự vận động của thực tế trên đầu, và rằng mọi người cần phải đặt nó dưới chân. Sự chất nhận của Marx với khái niệm biện chứng duy vật này phản đối lại chủ nghĩa duy tâm của Hegel bị ảnh hưởng nhiều từ Ludwig Feuerbach. Trong Bản chất của Thiên chúa giáo, Feuerbach cho rằng Chúa thực tế là một sản phẩm của con người và rằng các tính chất mà loài người gán cho Chúa thực tế là các tính chất của loài người. Vì thế, Marx cho rằng chính thế giới vật chất là thực và rằng các tư tưởng của chúng ta là hậu quả của nó, chứ không phải là nguyên nhân của thế giới. Vì thế, như Hegel và các nhà triết học khác, Marx phân biệt giữa vẻ ngoài và thực tế. Nhưng ông không tin rằng thế giới vật chất ẩn giấu khỏi chúng ta thế giới “thực” của lý tưởng; trái lại, ông nghĩ rằng về mặt lịch sử và xã hội ý tưởng riêng biệt khiến con người không thấy được các điều kiện vật chất của cuộc đời họ một cách rõ ràng.

Cống hiến quan trọng khác của Marx cho việc sửa đổi lại chủ nghĩa Hegel có trong cuốn sách của Engel, Điều kiện của Tầng lớp Lao động tại Anh năm 1844, khiến Marx hình thành biện chứng lịch sử theo những khái niệm xung đột giai cấp và xem giai cấp lao động hiện đại là lực lượng tiến bộ nhất của cách mạng. Bài viết của Engel “Đề cương Kinh tế Chính trị” trong Deutsch-Französische Jahrbücher cũng có ảnh hưởng lớn khiến ông nghiên cứu hoạt động của nền kinh tế tư bản.

Marx tin rằng ông có thể nghiên cứu lịch sử và xã hội một cách khoa học và phân biệt các khuynh hướng của lịch sử và kết quả của những cuộc xung đột xã hội. Một số người theo Marx, vì thế, đã kết luận, rằng một cuộc cách mạng cộng sản là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, Marx đã xác nhận một cách nổi tiếng trong phần mười một của cuốn Theses on Feuerbach của mình rằng “các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới, theo nhiều cách; tuy nhiên việc thiết yếu là thay đổi nó”, và ông rõ ràng đã dành cả đời mình để tìm cách làm thay đổi thế giới. Vì thế, hầu hết những người theo Marx không tán thành thuyết định mệnh, mà là chủ nghĩa tích cực: họ tin rằng những cuộc cách mạng phải tổ chức thay đổi xã hội.

Một cách nền tảng, Marx cho rằng thực chất loài người tương quan tới việc tái tạo tự nhiên. Với quy trình tái tạo này ông đặt ra thuật ngữ ” lao động “, và với năng lực tái tạo tự nhiên là thuật ngữ ” sức lao động. ” Marx phát biểu :

“ Một con nhện triển khai những việc làm giống với việc làm của một thợ dệt, và một con ong hơn hẳn một kiến trúc sư khi thiết kế xây dựng những chiếc tổ của nó. Nhưng điều khiến người kiến trúc sư tồi nhất độc lạ với những con ong kĩ năng nhất là điều này, rằng người kiến trúc sư đã tưởng tượng ra khu công trình của mình trước khi anh ta kiến thiết xây dựng nó trên trong thực tiễn. ”

— (Tư bản, Quyển I, Chương 7, Pt. 1)   

Sự nghiên cứu và phân tích lịch sử dân tộc của Marx tập trung chuyên sâu vào việc tổ chức triển khai lao động và phụ thuộc vào vào sự phân biệt của ông giữa :

  1. Phương tiện / lực sản xuất, theo nghĩa đen những thứ (như đất đai, các nguồn tài nguyên, và công nghệ) cần thiết cho việc sản xuất hàng hoá vật chất; và
  2. Quan hệ sản xuất, nói theo cách khác, quan hệ xã hội mà con người tham gia vào khi họ thu thập và sử dụng phương tiện sản xuất.

Cùng với nhau chúng tạo ra phương pháp sản xuất, và Marx phân biệt những thời kỳ lịch sử vẻ vang theo những phương pháp sản xuất. Ví dụ, ông quan sát thấy rằng những xã hội châu Âu đã văn minh từ một phương pháp sản xuất phong kiến tới một phương pháp sản xuất tư bản. Marx tin rằng dưới chính sách tư bản, những phương tiện đi lại sản xuất đổi khác nhanh hơn những quan hệ sản xuất ( ví dụ, tất cả chúng ta tăng trưởng một công nghệ tiên tiến mới, như Internet, và sau đó tất cả chúng ta mới tăng trưởng những điều luật quản trị công nghệ tiên tiến đó ). Marx coi sự không đối xứng này giữa ( kinh tế tài chính ) nền móng và ( xã hội ) siêu cấu trúc như nguồn lực chính cho sự xung đột và phá vỡ xã hội .Như một nhà khoa học và người theo chủ nghĩa duy vật, Marx không hiểu những những tầng lớp chỉ như chủ quan ( nói cách khác, những nhóm người có ý thức phân biệt mình với người khác ). Ông tìm cách định nghĩa những những tầng lớp theo những thuật ngữ của tiêu chuẩn khách quan, như năng lực tiếp cận của họ với những nguồn tài nguyên — có nghĩa là, liệu một nhóm có chiếm hữu hay không phương tiện đi lại sản xuất. Với Marx :

“ Lịch sử của mọi xã hội sống sót cho tới nay là lịch sử vẻ vang của những cuộc đấu tranh giai cấp. ”

—  (Tuyên ngôn Cộng sản, Chương 1)   

Marx có một lo lắng đặc biệt quan trọng với việc làm sao con người tương quan tới nguồn tài nguyên có tính nền tảng nhất, sức lao động của chính họ. Ông đã viết nhiều về điều này trong những thuật ngữ về yếu tố của sự chuyển nhượng ủy quyền. Như với biện chứng, Marx mở màn với một khái niệm của Hegel về sự chuyển nhượng ủy quyền nhưng đã tăng trưởng một khái niệm duy vật hơn. Chủ nghĩa tư bản dàn xếp những quan hệ sản xuất ( như giữa những người thợ hay giữa những người thợ và những nhà tư bản ) trải qua hàng hoá, gồm cả lao động, được đưa ra và bán trên thị trường. Với Marx, năng lực rằng một người hoàn toàn có thể ngừng việc chiếm hữu sức lao động của chính mình — năng lực của một người trong việc tái tạo quốc tế — là ngang với việc bị chuyển nhượng ủy quyền khỏi bản tính tự nhiên của chính mình ; đó là một sự mất mát về ý thức. Marx đã miêu tả sự mất mát này là sự sùng bái thương mại, trong đó những thứ con người tạo ra, hàng hoá, có vẻ như có đời sống và sự chuyển dời của chính nó và con người và cách hành xử của họ chỉ đơn thuần cung ứng .

Sự sùng bái thương mại cung cấp một ví dụ cho cái mà Engels gọi là “sai lầm ý thức”, liên quan chặt chẽ tới việc hiểu ý thức hệ. Bằng “ý thức hệ”, Marx và Engels cho rằng các ý tưởng phản ánh các quyền lợi của một tầng lớp xã hội riêng biệt ở một thời điểm trong lịch sử, nhưng những người cùng thời với các ông coi nó như là vấn đề chung và vĩnh cửu. Quan điểm của Marx và Engels không chỉ cho rằng những niểm tin như vậy ở trạng thái tốt nhất cũng chỉ là nửa sự thật; chúng hoạt động như một chức năng chính trị quan trọng. Theo một cách khác, việc kiểm soát mà một tầng lớp thực hiện với phương tiện sản xuất gồm không chỉ việc sản xuất lương thực hay hàng hoá chế tạo; nó gồm cả sản xuất ý tưởng (điều này cung cấp một khả năng giải thích tại sao các thành viên của một tầng lớp phụ thuộc có thể giữ các ý tưởng trái ngược với các quyền lợi của chính họ. Vì thế, tuy các ý tưởng đó là sai lầm, chúng cũng hé lộ dưới hình thức quy tắc một số sự thật về các quan hệ chính trị. Ví dụ, dù niềm tin rằng các đồ vật con người tạo ra thực tế có khả năng sản xuất cao hơn chính người tạo ra nó theo nghĩa đen là điều vô lý, nó quả thực phản ánh (theo Marx và Engels) rằng con người ở chủ nghĩa tư bản bị tách khỏi chính khả năng lao động của mình. Một ví dụ khác về kiểu phân tích này là sự hiểu biết của Marx về tôn giáo, đã được tổng kết trong một đoạn ở lời nói đầu[51] tác phẩm năm 1843 của ông Đóng góp vào Chỉ trích Triết học cánh Hữu của Hegel:

“ Đau đớn tôn giáo là, ở một và cùng thời điểm, sự thể hiện sự đau đớn thực và một sự phản kháng chống lại đau đớn thực. Tôn giáo là tiếng thở dài của loài người bị đàn áp, trái tim của một thế giới không trái tim, và linh hồn của những điều kiện vô hồn. Nó là thuốc phiện của nhân dân. ”

— (Đóng góp vào Chỉ trích Triết học cánh Hữu của Hegel)   

Trong khi luận cương cao học Gymnasium cho rằng tôn giáo có mục tiêu xã hội hàng đầu là khuyến khích sự đoàn kết, ở đây Marx xem xét chức năng xã hội của tôn giáo theo các quan điểm chính trị và kinh tế nổi bật/bảo tồn tương đương. Hơn nữa, ông đưa ra một phân tích về các chức năng lý tưởng của tôn giáo: để phát lộ “một sự ý thức đảo ngược của thế giới.” Ông tiếp: “Nó trực tiếp là nhiệm vụ của triết học, mà trong khi phục vụ cho lịch sử, để bộc lộ sự tự ghẻ lạnh trong các hình thức phi thần thánh của nó, một lần nữa tôn giáo, hình thức thần thánh của sự tự ghẻ lạnh của con người đã bị bộc lộ”. Với Marx, sự tự ghẻ lạnh phi thần thánh này, “sự mất mát của con người”, hoàn thành một khi giai cấp vô sản nhận ra khả năng tiềm tàng của họ trong việc đoàn kết trong sự đoàn kết cách mạng. Kết luận cuối cùng của ông là rằng với Đức, sự giảm phóng con người nói chung chỉ có thể như một sự ngừng sở hữu tư nhân bởi giai cấp vô sản.

Kinh tế chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Marx tin rằng những công nhân công nghiệp ( giai cấp vô sản ) sẽ nổi lên khắp quốc tế .Marx cho rằng sự link của việc làm của con người ( và commodity fetishism ) hoạt động giải trí đúng chuẩn như đặc thù định nghĩa của chủ nghĩa tư bản. Trước chủ nghĩa tư bản, những thị trưởng sống sót ở châu Âu nơi những đơn vị sản xuất và những nhà buôn mua và bán hàng hoá. Theo Marx, một phương pháp sản xuất tư bản đã tăng trưởng ở châu Âu khi chính lao động trở thành một hàng hoá – khi những người nông dân được tự do bán sức lao động của chính mình – năng lực, và cần phải làm như vậy bởi họ không còn chiếm hữu đất đai của mình nữa. Mọi người bán sức lao động của mình – năng lực khi họ đồng ý sự thanh toán giao dịch trở lại cho bất kỳ việc làm nào họ làm trong một đơn vị chức năng thời hạn cho trước ( nói cách khác, họ không bán mẫu sản phẩm của lao động của mình, mà bán năng lực thao tác ). Để đổi lại việc bán lao động – năng lực họ nhận được tiền, được cho phép họ sống sót. Những người phải bán sức lao động – năng lực của mình là ” những người vô sản “. Người mua sức lao động năng lực, nói chung là người chiếm hữu đất đai và công nghệ tiên tiến để sản xuất, là một ” nhà tư bản ” hay ” tư sản “. Những người vô sản do vậy sẽ chiếm hầu hết so với những nhà tư bản .Marx phân biệt những nhà tư bản công nghiệp khỏi những nhà buôn tư bản. Các nhà buôn mua hàng hoá tại một thị trường và bán chúng tại một thị trường khác. Vì những quy luật cung và cầu hoạt động giải trí bên trong những thị trường đó, một sự độc lạ thường sống sót giữa giá của một loại sản phẩm tại một thị trường này và một thị trường khác. Sau đó, những nhà buôn triển khai việc kinh doanh, và kỳ vọng có được sự độc lạ giữa hai thị trường đó. Theo Marx, những nhà tư bản, ở mặt khác, tận dụng lợi thế của sự độc lạ giữa thị trường lao động và thị trường cho bất kể loại sản phẩm nào nhà tư bản hoàn toàn có thể sản xuất. Marx quan sát thấy rằng trên thực tiễn mọi ngành công nghiệp thành công xuất sắc đều có những đơn giá đầu vào thấp hơn đơn giá đầu ra. Marx gọi sự độc lạ đó là ” giá trị thặng dư ” và cho rằng giá trị này có nguồn gốc từ thặng dư lao động, sự độc lạ giữa cái người công nhân phải có để sống và cái họ hoàn toàn có thể tạo ra .Chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể tạo ra sự tăng trưởng cao bởi nhà tư bản hoàn toàn có thể, và có ý muốn, tái đầu tư doanh thu vào những công nghệ tiên tiến và thiết bị tư bản mới. Marx coi những tầng lớp tư bản là những tầng lớp cách mạng nhất trong lịch sử dân tộc, bởi họ thưởng xuyên nâng cấp cải tiến công cụ sản xuất. Nhưng Marx cho rằng chủ nghĩa tư bản có khuynh hướng khủng hoảng cục bộ theo định kỳ. Ông cho rằng cùng với thời hạn, những nhà tư bản sẽ góp vốn đầu tư ngày càng nhiều vào những kỹ thuật mới, và ngày càng ít hơn vào lao động. Bởi Marx tin rằng giá trị thặng dư bị chiếm đoạt từ lao động là nguồn gốc của doanh thu, ông Tóm lại rằng tỷ suất lợi nhuận phải giảm thậm chí còn khi nền kinh tế tài chính tăng trưởng. Khi tỷ suất lợi nhuận giảm dưới một mức nào đó, tác dụng sẽ là một sự giảm phát hay khủng hoảng cục bộ trong đó 1 số ít nghành của nền kinh tế tài chính sẽ sụp đổ. Marx cho rằng trong một cuộc khủng hoảng kinh tế như vậy giá lao động cũng sẽ sụt giảm, và sau cuối khiến không hề góp vốn đầu tư vào những kỹ thuật mới và sự tăng trưởng của những nghành nghề dịch vụ của nền kinh tế tài chính .

Marx tin rằng sự gia tăng mức độ nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng sẽ xé rách chu kỳ tăng trưởng, sụp đổ, và tăng trưởng tiếp này. Hơn nữa, ông tin rằng về dài hạn quá trình này sẽ tăng cao và làm tăng cường sức mạnh cho tầng lớp tư bản và làm khốn khó tầng lớp vô sản. Ông tin rằng nếu tầng lớp vô sản nắm được phương tiện sản xuất, họ sẽ khuyến khích các quan hệ xã hội để mọi người đều được có lợi ích một cách công bằng, và một hệ thống sản xuất ít bị ảnh hưởng hơn bởi các cuộc khủng hoảng định kỳ. Ông đặt ra lý thuyết rằng giữa chủ nghĩa tư bản và việc thành lập một hệ thống xã hội chủ nghĩa, có một sự chuyên chính của tầng lớp tư sản – một giai đoạn khi tầng lớp lao động giữ quyền lực chính trị và bắt buộc xã hội hoá các phương tiện sản xuất – tồn tại. Và ông đã viết trong cuốn “Phê phán cương lĩnh Gotha” của mình, “giữa xã hội tư bản và cộng sản có một giai đoạn chuyển tiếp cách mạng từ xã hội này tới xã hội kia. Tương ứng với nó cũng là một giai đoạn chuyển tiếp chính trị trong đó nhà nước có thể không là gì mà chỉ là sự chuyên chính cách mạng của tầng lớp vô sản.“[52] Tuy ông cho phép khả năng chuyển tiếp hoà bình ở một số quốc gia có các thể chế dân chủ mạnh (như Anh Quốc, Hoa Kỳ và Hà Lan), ông cho rằng ở các quốc gia khác với các truyền thống nhà nước tập trung mạnh, như Pháp, Đức, “đòn bẩy cuộc cách mạng của chúng ta phải là bạo lực.”[53]

Trong một bức thư gửi Vera Zasulich ngày 8 tháng 3 năm 1881, Marx thậm chí dự tính về khả năng nước Nga bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở sở hữu chung về ruộng đất của làng mir.[54] Tuy chấp nhận rằng ở nông thôn Nga “làng xã là điểm tựa của sự cải tạo xã hội ở Nga “, Marx cũng cảnh báo rằng để mir hoạt động như một phương tiện để đi thẳng lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, nó “đầu tiên phải loại bỏ các ảnh hưởng độc hại đang tấn công nó (làng xã nông thôn) từ mọi phía”.[55] Với điều kiện loại bỏ các ảnh hưởng nguy hiểm đó, Marx cho phép, rằng “các điều kiện bình thường của sự phát triển tự sinh” của làng xã nông thôn có thể tồn tại.[56] Tuy nhiên cũng trong lá thư gửi Vera Zaulich, Marx chỉ ra rằng “ở cốt lõi của chế độ tư bản chủ nghĩa…có sự tách biệt hoàn toàn người sản xuất khỏi phương tiện sản xuất”.[56] Marx có thể được tha thứ vì đã không thấy điều này ở giai đoạn đầu năm 1881, các điều kiện bên trong làng xã nông thôn sẽ nhanh chóng dẫn tới “sự khác biệt của giới nông dân” bên trong làng xã nông thôn Nga và sự dần tách biệt của nhiều nông dân bên trong làng xã khỏi phương tiện sản xuất.

Với hai mươi năm lợi thế quan sát kỹ hơn những làng xã nông nghiệp ở Nga, V. I. Lenin đã hoàn toàn có thể Kết luận rằng làng xã nông nghiệp không hề là hạt nhân tăng trưởng xã hội chủ nghĩa ở Nga, đúng chuẩn bởi sự ngày càng tăng số lượng nông dân Nga tại những làng xã nông nghiệp đang bị chia tách khỏi phương tiện đi lại sản xuất bên trong làng xã nông nghiệp. [ 57 ] Bên trong làng xã nông thôn Nga, đất đai là ” phương tiện đi lại sản xuất “. Theo cách lý tưởng, mọi nông dân trong làng xã nông thôn sẽ chiếm hữu hay được tiếp cận phần đất đai ngang nhau trong làng. Sự nghiên cứu và phân tích kỹ của Lenin về những làng xã Tóm lại rằng không phải mọi nông dân bên trong làng xã nông thôn có quyền tiếp cận như nhau với đất đai. Quả thực, ở thời gian Lenin viết cuốn sách của mình ( 1899 ), đã có sự độc lạ rất lớn giữa lượng đất đai được trồng cấy bởi 1 số ít nông dân kulak giàu sang tương phản với những nông dân nghèo bên trong làng xã nông nghiệp. [ 58 ] Hơn nữa, Tóm lại này không cố định và thắt chặt. Đúng hơn là sự tách biệt của nông dân bên trong làng xã nông nghiệp là một quy trình đang diễn ra. Ngày càng nhiều những nông dân nhỏ bên trong làng xã nông thôn trở nên không hề tự duy trì cho mình với lượng đất đai nhỏ mà họ được tiếp cận bên trong làng xã nông thôn .Một cách không hề tránh khỏi, nhiều nông dân nghèo bên trong làng xã nông thôn trên khắp nước Nga thực tiễn ” không có ruộng đất “. Khi thời hạn trôi đi nhiều nông dân nhỏ khác bên trong những làng xã nông thôn trở nên không có đất đai khi quy trình ” tách biệt nông dân ” được cho phép những nông dân giàu có trở nên giàu hơn và nông dân nghèo nghèo hơn .Một số nông dân không có ruộng đất phải tìm kiếm việc làm từ những nông dân ” kulak ” phong phú hơn bên trong làng xã nông thôn. Những nông dân không đất đai này sẽ được coi là một phần của những tầng lớp vô sản nông thôn. Những nông dân không đất đai khác sẽ rời bỏ làng xã và gia nhập vào những tầng lớp vô sản thành thị. Dù trong trường hợp nào đi nữa, Lenin chỉ ra rằng sự tăng trưởng này trọn vẹn quen thuộc với tất cả chúng ta cũng như quy trình suy sụp và ” vô sản hoá ” những tầng lớp nông dân nhỏ, bằng cách hoàn thành xong sự tách biệt những nông dân nhỏ ” không ruộng đất ” khỏi phương tiện đi lại sản xuất. [ 59 ]

Ảnh hưởng của Marx[sửa|sửa mã nguồn]

“ Công lao của Marx là ông đã bất ngờ tạo ra sự thay đổi về lượng trong lịch sử tư tưởng xã hội. Ông giải thích lịch sử, hiểu sự vận động của nó, dự đoán tương lai, nhưng ngoài việc dự đoán nó, ông đã thể hiện một quan niệm cách mạng: thế giới không chỉ cần được giải thích, nó phải được chuyển đổi. ”

Che Guevara, Nhà cách mạng Marxist[60]   

“ Việc Mác phát hiện ra những quy luật của sự phát triển xã hội đã cho ta chìa khóa để quản lý một cách khoa học các quá trình xã hội vì lợi ích của con người. Nhưng cũng cần nhấn mạnh – theo Mác – chỉ có thể quản lý một cách khoa học các quá trình xã hội sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sau khi thủ tiêu chế độ tư hữu, xã hội hóa nền sản xuất trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Chỉ có hoàn thành những cải cách xã hội chủ nghĩa mới xóa bỏ được tính tự phát và bảo đảm được sự phát triển theo kế hoạch nền sản xuất và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. ”

PGS-TS Nguyễn Văn Nam[7]

   

Berlin-MitteTượng đài Karl Marx và Friedrich Engels tại Marx-Engels-Forum

Tác phẩm của Marx và Engels đề cập tới rất nhiều chủ đề và có một sự phân tích phức tạp về lịch sử và xã hội về các quan hệ giai cấp. Những người theo Marx và Engels đã lấy từ tác phẩm này để đề ra những lý thuyết tương lai to lớn và liên kết được gọi là “Chủ nghĩa Marx”. Tuy nhiên, những người Marxist thường tranh luận lẫn nhau về cách giải thích các tác phẩm của Marx và cách để áp dụng những ý tưởng của ông vào các sự kiện và điều kiện hiện thời của họ. Sinh thời, Marx cho rằng những người xưng là “Marxist” khi đó thật ra chỉ là những kẻ không thật sự hiểu tư tưởng Marx, mà miêu tả và chủ nghĩa này một cách “nông cạn, hời hợt, thậm chí lệch lạc, mang tính chất biếm hoạ“. Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam cũng ghi nhận “Họ là những kẻ kiếm chác lợi lộc, danh vị ở các luận điểm đó, và họ lại tạo thành những bè phái, tự nhận là Marxist“. Hơn nữa, cũng cần phân biệt giữa “Chủ nghĩa Marx” và “cái Marx tin tưởng”; ví dụ, ngay trước khi ông mất năm 1883, Marx đã viết một bức thư cho nhà lãnh đạo công nhân Pháp Jules Guesde, và cho con rể của mình là Paul Lafargue, buộc tội họ “revolutionary phrase-mongering” và thiếu niềm tin ở giai cấp lao động. Sau khi đảng Pháp chia rẽ thành một đảng cải cách và cách mạng, một số người buộc tội Guesde (lãnh đạo đảng cách mạng) đã nhận mệnh lệnh từ Marx; Marx đã lưu ý Lafargue, “nếu đó là Chủ nghĩa Marx, thì tôi không phải là một người Marxist” (trong một bức thư gửi Engels, Marx sau này buộc tội Guesde là một “Bakuninist”).[61][62]

Đặc biệt, mọi người đã sử dụng từ ” Marxist ” theo một trong hai cách :

  1. để miêu tả những người dựa vào ngôn ngữ ý tưởng của Marx (ví dụ: “phương thức sản xuất”, “giai cấp”, “commodity fetishism”) để hiểu chủ nghĩa tư bản và các xã hội khác; hay:
  2. để miêu tả những người coi cuộc cách mạng công nhân là phương tiện duy nhất tới một xã hội cộng sản.

Một số người, đặc biệt quan trọng trong giới hàn lâm, những người đồng ý hầu hết kim chỉ nan của Marx, nhưng không phải toàn bộ những giải pháp do Marx yêu cầu, tự gọi mình là ” Marxian ” để sửa chữa thay thế .Sáu năm sau cái chết của Marx, Engels và những người khác đã xây dựng ” Quốc tế cộng sản hai ” như một cơ sở để liên tục hoạt động giải trí chính trị. Tổ chức này chứng tỏ thành công xuất sắc hơn nhiều so với Quốc tế cộng sản một : nó gồm có những đảng công nhân, đặc biệt quan trọng là Đảng Dân chủ Xã hội Đức lớn và thành công xuất sắc, hầu hết bộc lộ một viễn cảnh Marxist. Quốc tế cộng sản hai sụp đổ năm 1914, tuy nhiên, một phần bởi 1 số ít thành viên đã quay sang với ” chủ nghĩa xã hội cách mạng ” của Eduard Bernstein, và một phần bởi những sự chia rẽ do Thế chiến I gây ra .

Bản đồ những nước công bố là vương quốc xã hội chủ nghĩa theo hệ tư tưởng của Marxist, Leninist hoặc Mao Trạch Đông giữa 1979 và 1983. Giai đoạn này lưu lại mức độ chủ quyền lãnh thổ lớn nhất của những vương quốc xã hội chủ nghĩa .Thế chiến I cũng dẫn tới cuộc Cách mạng Nga năm 1917, trong những quy trình tiến độ sau này của nó một nhóm ly khai cánh tả của Quốc tế cộng sản hai, nhóm Bolshevik, dưới sự chỉ huy của Vladimir Lenin, lên nắm quyền lực tối cao. Cách mạng Nga đã khuyến khích công nhân trên khắp quốc tế lập ra ” Quốc tế cộng sản ba ” Bolshevik. Lenin hiện hữu như một người thừa kế chính trị và triết học của Marx, và đã tăng trưởng một chương trình chính trị, được gọi là ” Chủ nghĩa Lenin ” hay ” Chủ nghĩa Bolshevik “, lôi kéo cách mạng có tổ chức triển khai và được chỉ huy bởi một tổ chức triển khai TW tiền phong ” Đảng Cộng sản ” .Marx tin rằng cách mạng vô sản sẽ diễn ra trước hết ở những xã hội công nghiệp tiên tiến và phát triển như Pháp, Đức và Anh, nhưng Lenin cho rằng trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc, và bởi ” quy luật tăng trưởng không đều “, theo đó nước Nga một mặt có một xã hội nông nghiệp lỗi thời, nhưng mặt khác lại có một trong số những yếu tố mới nhất của nền công nghiệp, ” dây xích ” hoàn toàn có thể đứt ở điểm yếu nhất của nó, đó là, trong cái gọi là những vương quốc ” lỗi thời “, và sau đó gây ra cách mạng tại những xã hội công nghiệp tăng trưởng tại châu Âu, nơi xã hội đã chuẩn bị sẵn sàng cho chủ nghĩa xã hội, và sau đó nó lại giúp sức trở lại cho nhà nước công nhân tại Nga. [ 63 ]

Karl Marx và Friedrich Engels đã có một bình luận đáng chú ý trong lời nói đầu của ấn bản tiếng Nga cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản:

“ Hiện tại yếu tố là : liệu obshchina Nga, dù vẫn còn rất yếu ớt, đã là một hình thức chiếm hữu ruộng đất tập thể, chuyển trực tiếp tới hình thức cao hơn là sở hữu tập thể Cộng sản ? Hay, trái lại, tiên phong nó phải trải qua cùng quy trình tan rã như những cấu thành của tiến trình lịch sử dân tộc của phương Tây ? Câu vấn đáp duy nhất cho câu hỏi đó ở thời gian hiện tại hoàn toàn có thể là : Nếu Cách mạng Nga trở thành một tín hiệu của một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây, vì vậy cả hai sẽ bổ trợ cho nhau, phương pháp chiếm hữu chung ruộng đất lúc bấy giờ ở Nga hoàn toàn có thể là một điểm khởi đầu cho một sự tăng trưởng cộng sản. ”

— (Marx và Engels, Lời nói đầu ấn bản tiếng Nga của Tuyên ngôn Cộng sản)

   

“ Điểm đa phần trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử dân tộc quốc tế của giai cấp vô sản là người thiết kế xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. ”V. I. Lenin[64]

   

Những lời của Marx đã là điểm khởi đầu cho Lenin, [ 65 ] người, cùng với Trotsky, luôn tin rằng cách mạng Nga phải trở thành một ” tín hiệu cho một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây “. Những người ủng hộ Trotsky cho rằng sự thất bại của cách mạng ở phương Tây ( theo những sự kiện đã được Marx Dự kiến ) để giúp sức cuộc cách mạng Nga sau năm 1917 đã dẫn tới sự Open của Chủ nghĩa Stalin [ 66 ] và đã đặt ra khuôn khổ của lịch sử vẻ vang loài người trong bảy mươi năm .

Tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông cũng tự biểu lộ mình là một người thừa kế của Marx, nhưng cho rằng những người nông dân – không chỉ những người công nhân – hoàn toàn có thể đóng vai trò chỉ huy trong một cuộc cách mạng vô sản, thậm chí còn tại những vương quốc thuộc quốc tế thứ ba với đặc thù là chủ nghĩa phong kiến nông dân và sự vắng mặt của những người công nhân công nghiệp. Mao Trạch Đông gọi nó là Cách mạng Dân chủ Mới. Chủ nghĩa Marx – Lenin như được bộc lộ bởi Mao Trạch Đông được quốc tế gọi là ” chủ nghĩa Mao ” .Dưới thời Joseph Stalin, chính quyền sở tại Liên Xô đã triển khai những chủ trương sai lầm đáng tiếc, đồng thời tệ sùng bái cá thể trở nên phổ cập ( xem thêm bài Đại thanh trừng và Về sùng bái cá thể và những hậu quả của nó ). Những người theo chủ nghĩa chống cộng không cho rằng những sai lầm đáng tiếc trong công cuộc tăng trưởng chủ nghĩa cộng sản là do chủ ý của người thực thi chúng, mà chứng tỏ bộ mặt thật của chủ nghĩa Marx. Các vương quốc phương Tây có khuynh hướng theo chủ nghĩa tư bản khuyến khích cảm xúc này, và toàn cảnh chính trị thời Chiến tranh Lạnh cũng vậy. Quả thực, luôn có những giọng điệu sự không tương đồng quan điểm với Marx — những người theo chủ nghĩa Marx của Quốc tế Cộng sản hai cũ, những người Cộng sản cánh tả chia rẽ khỏi Quốc tế Cộng sản ba ngay sau sự xây dựng của nó, và sau này là Leon Trotsky và những người ủng hộ ông, đã lập ra một ” Quốc tế Cộng sản bốn ” năm 1938 để cạnh tranh đối đầu với Quốc tế Cộng sản của Stalin, công bố đại diện thay mặt cho chủ nghĩa Bolshevik đích thực .

Từ thực trạng của Quốc tế Cộng sản hai trong thập niên 1920 và 1930, một nhóm những người theo chủ nghĩa Marx sự không tương đồng đã xây dựng Viện Nghiên cứu Xã hội tại Đức, trong số đó có Max Horkheimer, Theodor Adorno, Erich Fromm, và Herbert Marcuse. Với tư cách một nhóm, những tác giả này đã được gọi là Trường phái Frankfurt. Trường phái tư tưởng của họ, được gọi là Lý thuyết Phê phán, đại diện thay mặt cho một kiểu chỉ trích triết học và văn hoá Marxist có ảnh hưởng tác động mạnh bởi Hegel, Freud, Nietzsche, và Max Weber .Trường phái Frankfurt chia rẽ với những người theo chủ nghĩa Marx thời kỳ đầu, gồm cả Lenin và những người Bolshevik ở nhiều góc nhìn quan trọng. Đầu tiên, thời ấy viết về sự ngày càng tăng uy thế của chủ nghĩa Stalin, họ đã đưa ra những hoài nghi về sáng tạo độc đáo truyền thống lịch sử Marxist về ý thức giai cấp của những tầng lớp vô sản. Thứ hai, không giống những người Marxist thời kỳ đầu, đặc biệt quan trọng là Lenin, họ phản đối thuyết định mệnh kinh tế tài chính. Dù Trường phái Frankfurt trở nên rất có ảnh hưởng tác động, cả những người theo chủ nghĩa Marx chính thống và 1 số ít người khác tham gia vào hoạt động giải trí chính trị đã chỉ trích việc làm của họ vì đã chia rẽ kim chỉ nan Marxist khỏi cuộc đấu tranh trong thực tiễn và đưa chủ nghĩa Marx vào một khuôn khổ trọn vẹn hàn lâm .Những người theo chủ nghĩa Marx điển hình nổi bật trong cùng thời kỳ gồm cả Georg Lukács và Antonio Gramsci thuộc Quốc tế Cộng sản ba, thường gộp vào một nhóm cùng Trường phái Frankfurt dưới thuật ngữ ” Chủ nghĩa Marx phương Tây “. Marx cũng gây một tác động ảnh hưởng quan trọng tới nhà triết học và phê bình văn học Đức Walter Benjamin, một người đôi lúc link với Adorno và Trường phái Frankfurt .

Năm 1949 Paul Sweezy và Leo Huberman đã thành lập Monthly Review, một tờ báo và tạp chí, để đưa ra tư tưởng Marx tại Hoa Kỳ độc lập với Đảng Cộng sản Hoa Kỳ.

Năm 1978, G. A. Cohen đã tìm cách bảo vệ tư tưởng Marx như một kim chỉ nan khoa học và có mạng lưới hệ thống của lịch sử dân tộc bằng cách khởi động lại những giáo điều TT của nó bằng ngôn từ triết học nghiên cứu và phân tích. Điều này đã làm phát sinh Chủ nghĩa Mác Phân tích, một trào lưu hàn lâm cũng gồm có Jon Elster, Adam Przeworski và John Roemer. Bertell Ollman trở thành một nhà vô địch khác về Marx trong khoanh vùng phạm vi hàn lâm Anh ngữ, tựa như như Shlomo Avineri người Israel .

Trong cuốn Das Kapital của Marx (2006), người viết tiểu sử Francis Wheen đã lặp lại quan sát của David McLellan rằng bởi chủ nghĩa Marx không giành thắng lợi ở phương Tây, “nó đã không bị chuyển thành một triết lý chính thức và vì thế trở thành chủ đề của sự nghiên cứu nghiêm túc mà không bị các phương tiện kiểm soát của chính phủ ngăn cản“.

Các quốc gia sau ở một số thời điểm trong lịch sử từng có các chính phủ với sự lãnh đạo ít nhất trên danh nghĩa là theo chủ nghĩa Marx (các quốc gia được in đậm vẫn đang có chính phủ đó ở thời điểm năm 2009):

Albania, Afghanistan, Angola, Bulgaria, Trung Quốc, Cuba, Síp, Tiệp Khắc, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Lào, Moldova, Mông Cổ, Nepal, Mozambique, Nicaragua, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Ba Lan, România, Nga, Nam Tư, Việt Nam. Ngoài ra, các bang Kerala, Tripura và Tây Bengal tại Ấn Độ cũng từng có các chính phủ theo chủ nghĩa Marx.

Các đảng chính trị và những trào lưu Marxist đã suy giảm đáng kể về ảnh hưởng tác động từ sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, với một số ít ngoại lệ, có lẽ rằng đáng chú ý quan tâm nhất là Nepal. Ngoài ra, sau khi Liên Xô đã sụp đổ nhưng tại châu Mỹ, hàng triệu người vẫn chống đối quy mô tự do mới của chính sách tư bản, mà đi theo con đường độc lập. Chính quyền Venezuela công bố quốc gia này triển khai công cuộc tăng trưởng xã hội chủ nghĩa vào thế kỷ XXI. Tại Bolivia, chính quyền sở tại đã triển khai quốc hữu hóa ngành công nghiệp dầu khí .Tại phương Tây, Marx vẫn được xem là một học giả quan trọng so với nền khoa học xã hội văn minh. Báo The Economist nói về Marx :

Cuối cùng, khi tượng đài đã bị kéo đổ, hình tượng của Karl Marx đã bị bôi bẩn một cách khinh khi cũng như Lenin và Stalin. Chủ nghĩa cộng sản đã bị từ chối trên lý thuyết cũng như thực tế; những lãnh đạo của nó đã bị gạt sang bên, những trí thức sáng lập và những nhà cai trị chống xã hội (sociopathic) cũng bị coi như nhau.

Những người sống ở phương Tây, sự phán xét không bị ảnh hưởng bởi việc sống trong hệ thống lấy Marx làm cảm hứng, phần lớn đã đưa ra một cái nhìn công bằng hơn. Marx đã bị hiểu lầm, họ hướng đến sự thông cảm. Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô là một sự xuyên tạc tư tưởng của ông. Những gì đã xảy ra ở những vùng đất tăm tối đó sẽ khiến Marx cảm thấy kinh hoàng cũng như chúng ta cảm thấy. Nó không phải là sự xác nhận những ý tưởng của ông.

Thật vậy, Marx đã đúng về nhiều ý tưởng tốt đẹp – về nhiều sai lầm của chủ nghĩa tư bản, về toàn cầu hóa và thị trường quốc tế, về chu kỳ kinh tế, về cách thức mà kinh tế tác động đến tư tưởng. Marx đã thấy trước; những điều đó vẫn tiếp tục diễn ra. Liên Xô và Đông Âu đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản trên thực tế bằng cách này hay cách khác (và Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba hoặc bất cứ nơi nào nó được áp dụng). Nhưng xin đừng loại bỏ Marx.[67]

Đánh giá về Marx[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1999, ĐH Cambridge ( Anh ) công bố bầu chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ, tác dụng là Marx đứng đầu, còn Einstein, nhà khoa học lớn đứng thứ hai .

Tháng 7 năm 2005, với câu hỏi tương tự, 27.9% thính giả trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình In Our Time trên kênh Radio 4 của BBC đã chọn Marx là nhà tư tưởng ưa thích của họ, và vẫn là đứng đầu.[68] David Hume, nhà triết học Scotland đứng thứ hai chỉ đạt 12,6% số phiếu, đứng xa sau Marx.

Trong cuộc bầu chọn 100 nhân vật vĩ đại nhất lịch sử vẻ vang Đức, Marx đứng thứ 3, chỉ sau Konrad Adenauer ( thủ tướng Tây Đức quy trình tiến độ 1949 – 1963 ) và Martin Luther, người sáng lập ra đạo Tin LànhTại tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, sau khi triển khai một cuộc khảo sát, người ta nhận thấy rằng số người biết Karl Marx là ai chiếm đến 100 % dân số Trung Quốc, họ cho rằng tư tưởng Marx quả là tư tưởng đã làm cho lịch sử vẻ vang trái đất có sự chuyển biến. Người cha đẻ của chủ nghĩa Marx này được xem là ” người thầy của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn quốc tế “. [ 69 ]Tại Hoa Kỳ, trong khảo sát tổng hợp những cuốn sách, tài liệu mà sinh viên Mỹ bắt buộc phải đọc trong hơn 1 triệu bài giảng năm năm nay, ” Tuyên ngôn Đảng Cộng sản ” của Karl Marx đã bỏ xa những cuốn sách phía sau để trở thành tài liệu được giáo viên Mỹ giảng dạy thoáng đãng nhất, cả về số bài giảng lẫn tần suất được giảng dạy. ” Tuyên ngôn Đảng Cộng sản ” được sử dụng làm tài liệu giảng dạy về kim chỉ nan xã hội, trong khi tại những lớp học kinh tế tài chính, những giáo sư thường ưa thích sử dụng cuốn ” Capital ” ( Tư bản – bộ sách đồ sộ của Marx nghiên cứu và phân tích về sự quản lý và vận hành của nền kinh tế tài chính tư bản chủ nghĩa ) [ 70 ] .

Nhiều người đề xướng chủ nghĩa tư bản đã coi chủ nghĩa tư bản là công cụ hiệu quả hơn trong việc tạo ra và phân phối tài sản so với chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản, hay đã thể hiện sự chia tách giàu nghèo như sự lo ngại của Marx và Engels chỉ là một hiện tượng nhất thời. Một số người cho rằng tính tư lợi và nhu cầu sở hữu tư bản là một tính chất sẵn có của cách hành xử của con người, chứ không phải bị gây ra bởi việc chấp nhận chủ nghĩa tư bản hay bất kỳ một hệ thống kinh tế riêng biệt nào khác và rằng những hệ thống kinh tế khác nhau phản ánh những sự đáp ứng khác nhau của xã hội với thực tế này. Trường phái Áo về kinh tế đã chỉ trích việc Marx sử dụng lý thuyết giá trị thặng dư lao động.[71] Ngoài ra, sự đàn áp chính trị và các vấn đề kinh tế của nhiều nhà nước Cộng sản lịch sử đã làm giảm sút khá nhiều danh tiếng của Marx ở phương Tây, đặc biệt sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và của Liên bang Xô viết. John Maynard Keynes coi chủ nghĩa Marx là một học thuyết phi logic[72] và gọi cuốn Das Kapital là “một cuốn sách lỗi thời mà tôi biết không chỉ có nhiều lỗi về mặt khoa học mà còn không được quan tâm hay có thể áp dụng vào thế giới hiện đại“[73].

Tuy sự tàn phá kinh tế tài chính của cuộc Đại Giảm phát trong thập niên 1930 đã làm ngày càng tăng lời lôi kéo tới chủ nghĩa Marx ở những vương quốc tăng trưởng, sự hồi sinh kinh tế tài chính sau đó và việc chính phủ nước nhà vận dụng những giải pháp cứu vãn đã làm giảm sút tầm ảnh hưởng tác động của nó. [ 74 ] Trái lại, chủ nghĩa Marx trở nên đặc biệt quan trọng có tác động ảnh hưởng tại những xã hội phong kiến và chưa tăng trưởng về công nghiệp như nước Nga thời Sa hoàng trước năm 1917, nơi cuộc Cách mạng Bolshevik đã chứng tỏ là một sự thành công xuất sắc. [ 75 ]Tới đầu thế kỷ XXI, những bài học kinh nghiệm, chủ trương phúc lợi xã hội và quyền của người lao động mà những nước thuộc mạng lưới hệ thống cộng sản chủ nghĩa để lại trong việc kiến thiết xây dựng một xã hội mới công minh, văn minh hơn đã được những nhà nước tân tiến tiếp thu. Một số giải pháp kinh tế tài chính – xã hội mà chủ nghĩa Marx đề ra đã được vận dụng ở khắp mọi nơi, ngay cả ở những nước phương Tây vốn từng là đối thủ cạnh tranh. J. Arch Getty nhận xét : [ 76 ]

Công cuộc cải tạo quyền lao động ở phương Tây trong thế kỷ qua được thúc đẩy bởi một phong trào lao động quốc tế, được bảo vệ và hỗ trợ bởi Liên Xô. Chính sách New Deal của Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt có một phần được sao chép từ chính sách của Liên Xô. Các mục tiêu xã hội phổ biến ngày hôm nay, bao gồm các quyền của phụ nữ và bình đẳng chủng tộc, là chính sách của các Đảng Cộng sản từ rất lâu trước khi được chính phủ Mỹ thi hành một cách nghiêm túc. Những người Cộng sản đầu tiên đã đi đến Nam Mỹ và bắt đầu tổ chức những người da trắng, người Mỹ gốc Phi và người nghèo xung quanh vấn đề đòi hỏi công bằng xã hội. Trên trường quốc tế, Liên Xô cung cấp hỗ trợ cho Nelson Mandela chống lại chế độ áp bức chủng tộc và những cải cách khác. Chủ nghĩa Cộng sản tạo ra sự cạnh tranh khó khăn cho các nước phương Tây, và người ta nghi ngờ rằng những cải cách xã hội ở phương Tây đã không xảy ra nếu nước Nga Xô viết không tồn tại. Trớ trêu thay, sự tồn tại của Liên Xô đã giúp phương Tây tư bản tự cải cách và tránh khỏi những cuộc cách mạng đẫm máu của phương Đông. Chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX không phải là ảo tưởng thoáng qua; di sản của nó đang hiện diện ở khắp mọi nơi.

Những người khác chỉ trích Marx từ góc nhìn triết lý khoa học. Karl Popper chỉ trích những kim chỉ nan của Marx là không có tính khả thi, điều mà ông tin là xuất phát từ một số ít góc nhìn lý luận lịch sử dân tộc và chính trị xã hội phi khoa học của Marx ; tiêu chuẩn tính khả thi của Popper, dù rất có ảnh hưởng tác động, cũng đã bị chứng tỏ hoàn toàn có thể gây tranh cãi. Popper cũng chỉ trích Marx về ‘ chủ nghĩa lịch sử dân tộc ‘ ; nghĩa là, việc giả định rằng sự tăng trưởng của những xã hội loài người tuân theo một bộ quy luật cố định và thắt chặt và hoàn toàn có thể thấy trước. [ 77 ]

Murray Rothbard cho rằng “…Marx không bao giờ tìm cách đưa ra một câu trả lời. Quả thực ông không thể, bởi nếu ông gắn tình trạng kỹ thuật hay sự thay đổi công nghệ với những hành động của con người, của con người cá nhân, toàn bộ hệ thống của ông sẽ sụp đổ. Với ý thức của loài người, và ý thức cá nhân với điều đó, thì khi ấy mới xác định phương thức sản xuất chứ không phải cách thức khác theo hình tròn.“[78] Tuy nhiên, bài viết Lời nói đầu cho một sự đóng góp vào việc phê bình Kinh tế chính trị nổi tiếng của Marx phát biểu rằng “Trong sự sản xuất xã hội của sự tồn tại của nó, con người không tránh được phải tham gia vào những quanh hệ xác định, phụ thuộc vào ý chí của họ, nói rõ ra là những quan hệ sản xuất thích ứng với một giai đoạn cho trước trong sự phát triển các lực lượng sản xuất vật chất của họ.“[79] Marx đã gắn một cách rõ ràng các lực lượng sản xuất và sự phát triển của chúng với những hành động của loài người, nhưng nhấn mạnh bản chất xã hội của sự phát triển này, dựa trên nhu cầu, nhu cầu phải duy trì sự tồn tại của con người, vì thế phát triển “độc lập của ý chí của họ”, như các cá nhân, và vì thế ảnh hưởng ngược lại tới cá nhân theo những cách phản ứng các điều kiện xã hội cho trước.

Từ cánh tả[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà triết học cánh tả Peter Singer, trong cuốn sách Một người Darwin cánh Tả, đã đặt nghi vấn quan điểm Marxist về bản chất con người là rất dễ thay đổi. Nhà khoa học Lionel Tiger cũng đã trình bày lý lẽ chống lại quan điểm Marxist về bản chất con người. Lionel Tiger cho rằng những tuyên bố Marxist đã không thể loại bỏ và trao quyền lực cho giai cấp vô sản bởi chủ nghĩa xã hội Marxist không nhận ra rằng bởi con người đã được thừa hưởng khuynh hướng cạnh tranh và chuyên chế từ những tổ tiên thời nguyên thuỷ của mình trong một hệ thống “kiểm tra và cân bằng” và những hạn chế với việc cá nhân giành lấy quyền lực và tài sản là cần thiết để duy trì một xã hội xã hội chủ nghĩa quân bình.[80]

Ngoài ra, những nhà tư tưởng cánh tả theo tư tưởng vô chính phủ nước nhà như Mikhail Aleksandrovich Bakunin tại Nga, người có chủ trương ” xóa bỏ giai cấp, đưa mọi của cải vào làm của chung, thủ tiêu Nhà nước và mọi quyền lực tối cao ” [ 81 ] – đã chỉ trích Marx về những thành phần chuyên chính trong triết lý của ông và miêu tả ông như thể một kẻ ” thân chính phủ Bismarck ” bị ám ảnh với việc nắm quyền lực tối cao vương quốc. [ 82 ]

Marx và chống Semit[sửa|sửa mã nguồn]

Một số nhà bình luận, như Bernard Lewis, Edward H. Flannery và Hyam Maccoby, đã coi Về Vấn đề Do Thái của Marx như một tác phẩm chống Semit, và xác định những tính chất chống Semit trong các tác phẩm đã xuất bản và tác phẩm riêng của ông.[83][84]

Theo họ, Marx coi người Do Thái như một hiện thân của chủ nghĩa tư bản và là những người tạo ra các tính chất ma quỷ của nó.[85]

Theo quan điểm của họ, sự đánh đồng chủ nghĩa Do Thái với chủ nghĩa tư bản của Marx, cùng với những tuyên bố của ông về người Do Thái, đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới các phong trào xã hội chủ nghĩa và định hình nên thái độ và chính sách của họ với người Do Thái. Theo những ý kiến của các học giả này, tác phẩm Về Vấn đề Do Thái của Marx đã ảnh hưởng tới chủ nghĩa Phát xít, cũng như các tình cảm chống Semit của Liên bang Xô viết và người Ả Rập.[86][87][88] Albert Lindemann và Hyam Maccoby đã cho rằng Marx cảm thấy bối rối vì lý lịch Do Thái của mình.[89][90]

Những tác gia trên thường trích dẫn đoạn sau trong Về Vấn đề Do Thái để làm cơ sở cho lý luận của mình:

“ Đâu là cơ bản thế tục của chủ nghĩa Do Thái ? Nhu cầu thực tiễn, tính ích kỷ. Đâu là sự sùng bái thế tục của người Do Thái ? Mặc cả. Cái gì là vị thần thế tục của họ ? Tiền. Khi ấy thì, một sự giải phóng khỏi sự mặc cả và tài lộc, từ thực tiễn, chủ nghĩa Do Thái đích thực sẽ là tự giải phóng khỏi thời đại của tất cả chúng ta … … Giải phóng xã hội của người Do Thái là giải phóng xã hội khỏi chủ nghĩa Do Thái. [ 91 ] ”

Tuy nhiên, Giáo sư khoa học chính trị Iain Hamphsher-Monk cho rằng các chỉ trích trên là từ những người chưa đọc kỹ tác phẩm của Marx. Ông đã viết trong tác phẩm của mình: “Tác phẩm này [Về Vấn đề Do Thái] đã được nêu ra như một bằng chứng về cái được cho là tình cảm chống Semit của Marx, nhưng chỉ việc đọc nó một cách hời hợt mới có thể dẫn tới một sự giải thích như vậy.”[92] Tương tự, McLellan và Francis Wheen cho rằng các độc giả phải hiểu Về Vấn đề Do Thái trong bối cảnh các cuộc tranh cãi của Marx với Bruno Bauer, tác giả của Vấn đề Do Thái, về sự giải phóng Do Thái ở Đức. Francis Wheen nói: Những chỉ trích đó, ai coi nó như một tiền thân của ‘Mein Kampf’, bỏ sót một điều, điểm quan trọng: bỏ qua sự vụng về trong cách viết và sự thô thiển của bản in, tác phẩm trên thực tế được viết như một sự bảo vệ dành cho người Do Thái. Đó là sự đáp lại với Bruno Bauer, người đã cho rằng người Do Thái không nên được trao đầy đủ các quyền dân sự và tự do trừ khi họ được rửa tội để trở thành các tín đồ Thiên chúa.[93]

Theo McLellan, Marx đã sử dụng từ Judentum theo cách thông tục, với nghĩa thương mại, cho rằng người Đức phải chịu đựng, và phải được giải phóng khỏi, chủ nghĩa tư bản. McLellan kết luận rằng độc giả phải hiểu nửa sau của cuốn tiểu luận như một sự chơi chữ mở rộng làm thiệt hại cho Bauer.[94]

Jonathan Sacks, Chief Rabbi ở Anh, coi việc áp dụng thuật ngữ “chủ nghĩa chống Semit” cho Marx như một sự sai lầm — bởi Marx khi viết Về Vấn đề Do Thái, rõ ràng mọi nhà triết học lớn đều thể hiện các khuynh hướng chống Semit, nhưng từ “chủ nghĩa chống Semit” vẫn chưa được đặt ra, bỏ mặc phát triển một thành phần chủng tộc, và ít sự hiểu biết tồn tại về tầm mức của thiên kiến của người châu Âu chống người Do Thái. Vì thế Marx chỉ đơn giản thể hiện tư tưởng chung của thời kỳ của mình.[95]

Các tư liệu khác[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

(tiếng Anh)

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories