Diễn biến hòa bình – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Diễn biến hòa bình là khái niệm được một số nhà nước xã hội chủ nghĩa sử dụng để nói về một chiến lược chính trị – ý thức hệ và xã hội của chủ nghĩa tư bản và chính trị cánh hữu nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản. Đó là một quá trình diễn biến lâu dài, âm thầm, không đổ máu và yên lặng, nhưng sẽ dẫn đến sự loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và ý thức hệ của nó ở tại các nước xã hội chủ nghĩa [1]. Hiện nay, khái niệm này cũng được dùng để chỉ sự âm thầm can thiệp của một nước phương Tây vào tình hình chính trị nội bộ của một nước đối thủ, dù đó không phải một nước xã hội chủ nghĩa theo ý thức hệ chủ nghĩa Cộng sản, ví dụ như 1 nước cánh hữu là Nga.[2]

Từ diễn biến hòa bình lần tiên phong được đề cập tới trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh bởi John Foster Dulles, ngoại trưởng nước Mỹ trong những năm 1950, khi nói về chủ trương đối phó với Liên Xô. [ 3 ] Ý niệm này được Dulles miêu tả là một quy trình quy đổi ” hòa bình ” từ một thể chế mà chính phủ nước nhà Mỹ xem là độc tài sang dân chủ tại một nước xã hội chủ nghĩa. [ 4 ] Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông đã công bố chống lại ” diễn biến hòa bình ” từ năm 1959. [ 5 ] Nhất là sau sự kiện Thiên An Môn, báo chí truyền thông Trung Quốc càng nhấn mạnh vấn đề ” thủ đoạn diễn biến hoà bình ” của phương Tây nhằm mục đích đánh đổ những Nhà nước xã hội chủ nghĩa. [ 6 ]

Một số biến động dưới dạng “diễn biến hòa bình” gần đây diễn ra ở một số quốc gia[7] đã làm thay đổi mô hình chính trị của một đất nước, như việc “tự diễn biến” ở Miến Điện chuyển từ một chế độ quân phiệt (quân đội nắm quyền) sang mô hình nghị viện đầu phiếu[8] hay ở Đông Đức bãi bỏ Nhà nước Cộng sản chủ nghĩa.[9]

Ở cách hiểu rộng hơn, ” Diễn biến hòa bình ” cũng hoàn toàn có thể được hiểu là sự sụp đổ của một vương quốc hoặc một nền văn minh sau một thời hạn dài sống trong hòa bình, bởi những yếu tố nội tại bị suy thoái và khủng hoảng chứ không phải do bị tiến công từ bên ngoài .

Thời cổ đại và cận đại

Trong lịch sử vẻ vang, rất nhiều đế chế, vương quốc vĩ đại được xây dựng với những chiến tích huy hoàng, thống trị những vùng đất to lớn, quân đội hùng mạnh, nhưng lại dần suy thoái và khủng hoảng và sụp đổ sau một thời hạn hòa bình lê dài, ví dụ như Đế chế La Mã, Đế quốc Mông Cổ, Đế quốc Ba Tư, những triều đại Nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh … ở Trung Quốc .Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà sử học đã tổng kết nguyên do sụp đổ của những đế chế, triều đại sau một thời hạn sống trong hòa bình và thịnh vượng. Theo lời của Alexander Tytler, giáo sư lịch sử vẻ vang thế kỷ 19 ở Scotland thì những vương quốc hùng mạnh đã tăng trưởng nhờ vào đạo đức ý thức và sự gắn kết xã hội, nhưng sau khi đã thành công xuất sắc, đời sống trở nên sung túc thì người dân những nước này mở màn suy đồi về đạo đức, quan chức trở nên tham nhũng và sau cuối là cả vương quốc suy tàn [ 10 ] :

“Tuổi thọ trung bình của các nền văn minh vĩ đại nhất thế giới kể từ khi bắt đầu lịch sử nhân loại, là khoảng 200 năm. Trong suốt 200 năm đó, các quốc gia này luôn tiến triển qua chuỗi sau: Từ nô lệ dẫn đến đạo đức tâm linh; Từ đạo đức tâm linh dẫn đến lòng can đảm; Từ lòng can đảm dẫn đến sự giải phóng; Từ sự giải phóng dẫn đến sự sung túc; Từ sự sung túc dẫn đến sự ích kỷ; Từ sự ích kỷ dẫn đến sự thờ ơ, từ sự thờ ơ dẫn đến sự lệ thuộc; Từ sự lệ thuộc dẫn đến làm nô lệ”

Vào thế kỷ 14, học giả Ibn Khaldun, dựa trên nghiên cứu và điều tra về lịch sử vẻ vang những đế chế cổ đại, Hồi giáo và Kitô giáo, đã xác lập một quy mô chu kỳ luân hồi về sự xây dựng, tăng trưởng rồi diệt vong của 1 vương quốc hoặc triều đại. Tất cả chúng đều trải qua bốn quy trình tiến độ sau [ 11 ] :

  • Giai đoạn đầu tiên: thiết lập triều đại/xã hội mới. Các nhà lãnh đạo rất tài năng, người dân thì đoàn kết, tôn trọng đạo đức và rất dũng cảm. Mọi người tin tưởng lẫn nhau và sẵn sàng cống hiến cho tập thể.
  • Giai đoạn thứ 2: Suy thoái. Xã hội chuyển sang lối sống đề cao xa xỉ, phân hóa giàu nghèo gia tăng, và sự đoàn kết giữa các tầng lớp bị phá vỡ. Người dân tầng lớp dưới trở nên quen với sự phục tùng, trong khi tầng lớp trên trở nên xa xỉ, thích hưởng thụ. Nhưng nhiều người trong số họ vẫn còn các đức tính cũ và vẫn hy vọng rằng lối sống đạo đức tồn tại trong thế hệ trước có thể trở lại.
  • Giai đoạn thứ 3: Mục ruỗng. Xã hội đã hoàn toàn quên đi những giai đoạn tủi nhục, khốn khổ trong lịch sử, như thể giai đoạn đó chưa bao giờ tồn tại, bởi vì họ đã quen sống trong thịnh vượng và dễ dàng. Qua thời gian dài sống trong hưởng thụ, tầng lớp thống trị trở nên mềm yếu giống như phụ nữ và trẻ em, họ không còn khả năng chiến đấu và lãnh đạo. Còn tầng lớp bình dân thì chứng kiến quá nhiều sự bất công nên ngày càng chán ghét đất nước, lòng ích kỷ và tư lợi ngày càng gia tăng, không mấy ai còn muốn cống hiến cho xã hội hoặc chiến đấu vì tập thể. Tinh thần đoàn kết cộng đồng gần như biến mất hoàn toàn, xã hội giống như một tòa nhà đã mục ruỗng cột trụ, chỉ cần một biến cố nhỏ là có thể sụp đổ tan tành.
  • Giai đoạn thứ 4: Sụp đổ. Đất nước và triều đại sụp đổ do nội loạn hoặc do sự chinh phục từ một quốc gia/triều đại khác vẫn còn đang trong giai đoạn 1 đầy mạnh mẽ.

Chu kỳ nói trên vẫn đúng ở mọi quốc gia trong thời kỳ hiện đại. Có phân tích cho rằng văn minh phương Tây (Mỹ và Tây Âu) hiện đã bước vào giai đoạn thứ 3. Các nước này đứng hàng đầu thế giới về kinh tế và công nghệ, người dân sống sung túc (giống như Đế chế La Mã trước kia), nhưng lối sống hưởng thụ lại khiến đạo đức xã hội bị thụt lùi. Kể từ sau Thế chiến 2, chủ nghĩa cá nhân, quan hệ tình dục trước hôn nhân, phim ảnh khiêu dâm, phong trào cổ vũ đồng tính luyến ái, chuyển giới, hôn nhân đồng tính… nảy nở mạnh ở Mỹ và Tây Âu, chúng đã phá hủy phần lớn các giá trị đạo đức tinh thần và đức tin Ki-tô giáo trong xã hội[11] Nhà bình luận Mark Steyn phân tích rằng xã hội các nước Tây Âu đang tự sát và đi đến hấp hối bởi tỷ lệ kết hôn và sinh sản giảm xuống quá thấp, giới trẻ thì mất hẳn đạo đức truyền thống và niềm tin vào Ki-tô giáo, trong khi dân số Hồi giáo di cư đến Tây Âu đang tăng nhanh và con cháu họ vẫn duy trì rất tốt niềm tin Hồi giáo của mình. Mark Steyn nói rằng đã quá muộn để cứu vãn các nước Tây Âu: “Châu Âu thời kỳ hậu Ki-tô giáo không thực sự có niềm tin và nó cũng không có chuẩn mực gia đình. Họ đang biến dần vào quá khứ. Xã hội của họ, về cơ bản, đã bị phá vỡ thành những mảnh nhỏ”[12].

Nhà điều tra và nghiên cứu Richard Dawkins cảnh báo nhắc nhở rằng sự sụp đổ của những xã hội Kitô giáo ở Tây Âu không phải là điều xa vời. Với thực trạng này, thì tới khoảng chừng năm 2050 – 2070, người Hồi giáo sẽ trở thành nhóm dân cư chiếm hầu hết tại những nước Tây Âu. Khi đó, văn minh Hồi giáo sẽ ” đánh chiếm ” được Tây Âu mà không cần súng đạn, và văn minh Tây Âu địa phương sẽ tàn lụi [ 13 ] Đó sẽ là ví dụ minh họa rõ ràng cho định luật của Alexander Tytler và Ibn Khaldun : khi một quốc gia phong phú về vật chất nhưng lại mất đi giá trị ý thức và đạo đức, thì quốc gia đó sẽ sớm bị thôn tính bởi một xã hội khác vẫn duy trì được nền tảng niềm tin và đạo đức .

Nguồn gốc tân tiến

Từ “diễn biến hoà bình” đã được biến đổi bởi ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles, từ một học thuyết ban đầu được vạch ra bởi George F. Kennan, trong cái gọi là điện tín dài vào ngày 22 tháng 2 năm 1946, đã đề xuất rằng các khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa có thể đạt đến trạng thái “sống chung hòa bình.” [14] Điều này đã được bổ sung bởi Dulles hơn một thập kỷ sau đó, trong bài phát biểu vào năm 1957-1958, để “thúc đẩy diễn biến hòa bình hướng tới dân chủ.”[14]

Tháng 10/1963, ngoại trưởng Anh Alex Douglas phát biểu “con đường đánh bại chủ nghĩa cộng sản là dùng tư tưởng của chúng ta để đánh vào các nước cộng sản chủ nghĩa”. Theo đó, Mỹ cần trao đổi du học sinh với Liên Xô, rồi sau đó dùng hưởng thụ vật chất để cải biến tư tưởng – văn hóa của những du học sinh này. Sau khi những du học sinh này về nước thì đó chính là những “hạt giống” để tư tưởng thân phương Tây, phủ định chủ nghĩa xã hội dần thâm nhập vào nhà nước và người dân các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong giới thanh niên. Tiêu biểu là Alexander Yakovlev, từng làm du học sinh ở Mỹ năm 1958, sau này trong cương vị Trưởng ban Tuyên giáo Đảng Cộng sản Liên Xô đã ngầm chấp thuận, cổ vũ cho các quan điểm xét lại lịch sử, phê phán cách mạng trên báo chí Liên Xô, góp phần làm Liên Xô tan rã[15]

Trong một bài phát biểu, Ngoại trưởng Mỹ Dulles nhắc tới ” việc sử dụng những giải pháp hòa bình ” để ” đẩy nhanh quy trình tiến hóa của những chủ trương của chính phủ nước nhà trong khối Trung-Xô ” để ” rút ngắn tuổi thọ dự kiến của chủ nghĩa cộng sản. ” [ 16 ]Theo Bạc Nhất Ba, Mao Trạch Đông khi nghe nói về những nhận xét ​ ​ của Dulles đã nhận thấy đây là yếu tố nghiêm trọng, ông ra lệnh những cán bộ số 1 của Đảng phải điều tra và nghiên cứu về phát biểu này. [ 14 ] [ 17 ] Mao Trạch Đông thấy rằng ý tưởng sáng tạo về ” diễn biến hoà bình ” là một rình rập đe dọa nghiêm trọng, một ” giải pháp lừa đảo lớn ” hoàn toàn có thể khiến Trung Quốc suy đồi, và là một đại chiến chống lại những cường quốc xã hội chủ nghĩa mà không cần phương tiện đi lại quân sự chiến lược [ 14 ] Mao Trạch Đông cảm thấy rằng đại chiến đã được thực thi, với 1 số ít hiệu suất cao, chống lại Liên Xô. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, những người cộng sản Trung Quốc càng trở nên chăm sóc nhiều hơn về kế hoạch này. [ 17 ]

Luận điểm của chính quyền sở tại Nước Ta

” Diễn biến hòa bình ” cũng được nhà nước Nước Ta nói về những hoạt động giải trí của một số ít cá thể hoặc trào lưu tự xưng là hoạt động dân chủ, nhân quyền trong và ngoài nước để có những hành vi ” tuyên truyền chống nhà nước Nước Ta “, hoặc những lời nói ” đối nghịch và vi phạm pháp lý Nước Ta “. [ 18 ] Một mặt, Nước Ta liên tục hội nhập, thiết kế xây dựng quan hệ trên mọi mặt với những vương quốc phương Tây ( như Mỹ, EU ), mặt khác Nhà nước Nước Ta vẫn đề phòng sự can thiệp của những nước phương Tây vào tình hình chính trị Nước Ta .

Ngoài diễn biến hòa bình do bên thứ ba tác động, một phần quan trọng khác là “tự diễn biến hòa bình”, tức là nhận thức của cá nhân hay tổ chức trong nước tự thay đổi, làm chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy, lây lan trên diện rộng khiến “xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội” mà nhà nước đề ra.[19]

Khái niệm chính thống

Theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa Nước Ta của Viện Khoa học Xã hội Nước Ta thì : [ 20 ]

Diễn biến hòa bình chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Đối tượng của chiến lược Diễn biến hòa bình là các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa. Bản chất của chiến lược Diễn biến hòa bình là chống chủ nghĩa xã hội. Nội dung cơ bản là phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa về các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v… Phương thức và thủ đoạn chủ yếu là tạo dựng và thúc đẩy những nhân tố phản động, chống đối từ bên trong, đẩy đối phương vào khủng hoảng toàn diện, từng bước chuyển hoá chế độ chính trị theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc bị chính các thế lực chống đối dùng bạo lực lật đổ.

Diễn biến hòa bình được triển khai thường là tổng hợp nhiều giải pháp buộc đối phương trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực, nhiều hoạt động giải trí chống đối, thôi thúc cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội thành khủng hoảng cục bộ chính trị, tạo ra tình thế bạo loạn lật đổ chính sách .Những ý tưởng sáng tạo khởi đầu về Diễn biến hòa bình do những nhà hoạch định kế hoạch phương Tây soạn thảo từ cuối những năm 40 thế kỉ 20, sau được liên tục bổ trợ ; cuối thập kỉ 80 thế kỷ 20, được nâng lên và hoàn hảo thành kế hoạch. Trong điều kiện kèm theo mới của so sánh lực lượng trên quốc tế, kế hoạch Diễn biến hòa bình được thực thi đa phần bằng những thủ đoạn phi quân sự, nhằm mục đích ” chuyển hóa hòa bình ” những nước xã hội chủ nghĩa theo tư bản chủ nghĩa. Sau dịch chuyển ở Liên Xô và những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, phương Tây công khai minh bạch công bố chuyển hướng kế hoạch ” kiềm chế ” sang kế hoạch ” lan rộng ra ” với hai nội dung cơ bản : ” dân chủ hoá về chính trị ” và ” tự do hoá về kinh tế tài chính “. Vấn đề ” nhân quyền ” và ” dân chủ ” được coi là vũ khí lợi hại .

Đối tượng ảnh hưởng tác động

Để đạt được tiềm năng đề ra, khoanh vùng phạm vi tác động ảnh hưởng của ” diễn biến hòa bình ” về tư tưởng và lý luận tập trung chuyên sâu hướng tới gồm có [ 21 ] .

  • Một bộ phận cán bộ trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, đang giữ những vị trí trọng trách trong bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính trị, cán bộ hoạch định chiến lược, cán bộ làm công tác tư tưởng lý luận, công tác, tổ chức…
  • Trí thức và tầng lớp văn nghệ sĩ – một lực lượng nhạy cảm chính trị xã hội cao, thường chịu sự tác động rất nhanh nhạy trước những biến cố xã hội.
  • Thanh niên, sinh viên, lực lượng đông đảo và có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, là bộ phận năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp nhận và thích nghi với cái mới nhanh, nhiệt tình, xông xáo; nhưng vốn sống và kinh nghiệm ít, kiến thức và bản lĩnh chính trị hạn chế, mức độ kiềm chế và năng lực đề kháng trước những cám dỗ thấp, dễ bị lôi kéo bởi những luồng thông tin sai lệch.
  • Những phần tử cơ hội chính trị có quan điểm sai trái, đối lập với chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây là những thành phần cực đoan giàu tham vọng chính trị, sẵn sàng tiếp tay cho nước ngoài, tập hợp lôi kéo xây dựng lực lượng chống phá ra từ bên trong.
  • Một bộ phận nhân dân do thiếu hiểu biết, hoặc bị lợi dụng, mua chuộc dụ dỗ, đặc biệt là dân tộc ít người, đồng bào theo các tôn giáo… Bộ phận này thường bị kích động, lôi kéo, trở thành quân cờ chính trị trong tay các thế lực nước ngoài. Bộ phận này có vai trò như một công cụ gây áp lực chính trị, buộc chính phủ Việt Nam nhượng bộ thay đổi đường lối.

Mục tiêu

Mục tiêu của Diễn biến hòa bình tập trung chuyên sâu ở những góc nhìn : [ 22 ]

Mục tiêu chung của diễn biến hòa bình là làm cho đại đa số cán bộ, đảng viên và những những tầng lớp nhân dân, từ cán bộ cấp cao cho đến người dân đều có chung tâm trạng thiếu tín nhiệm, giao động. [ 24 ]

Các giải pháp triển khai Diễn biến hòa bình

Theo quan điểm của nhà nước Nước Ta, những sách lược triển khai Diễn biến hòa bình diễn ra trên nhiều nghành nghề dịch vụ :

Về chính trị – xã hội

Về giáo dục

Thông qua các chương trình đưa cán bộ ra nước ngoài học tập, nghiên cứu bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, nhất là nguồn tài trợ nước ngoài, hòng tạo ra một “thế hệ cán bộ thân phương Tây”, sau này nắm dần các cương vị trọng yếu trong hệ thống chính trị. Mặt khác, thông qua việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam để truyền bá các quan điểm xa lạ, gạt bỏ hệ tư tưởng cách mạng trong học viên[26].

Tổng thống Mỹ Ronald Reagan từng tuyên bố: “Đầu tư cho học sinh – sinh viên các nước Xã hội chủ nghĩa đang du học ở Mỹ là một khoản đầu tư lâu dài, hãy gây ảnh hưởng tư tưởng với họ, hun đúc họ trong lối sống và giá trị quan niệm văn minh Mỹ, chờ họ từng bước trở thành rường cột của xã hội họ, rồi thông qua cái đầu của họ biến đất nước đó chuyển mình theo nền văn minh tư bản của ta”. Ngay từ thập niên 1960, Mao Trạch Đông cũng lưu ý rằng các nước phương Tây sẽ thông qua việc tài trợ cho các du học sinh để đào tạo các phần tử có tư tưởng thân phương Tây, ủng hộ văn hóa phương Tây, rồi sau đó nhóm này sẽ về nước và thâm nhập vào hệ thống chính trị, báo chí, truyền thông, từ đó dần làm biến chất Đảng Cộng sản Trung Quốc từ bên trong: “Chủ nghĩa đế quốc gửi gắm tham vọng diễn biến hòa bình vào thế hệ thứ 3, thứ tư của chúng ta, phải đặc biệt cảnh giác những kẻ dã tâm và những kẻ có mưu đồ cá nhân muốn tiếm quyền lãnh đạo của Đảng và Nhà nước”[27]

Về tiếp thị quảng cáo và văn hóa truyền thống

Bản chất của kế hoạch ” diễn biến hòa bình ” là không hề biến hóa, tuy nhiên phương pháp, giải pháp triển khai ” diễn biến hòa bình ” thì biến hóa khôn lường và ngày càng phức tạp, phong phú. [ 25 ] Mục tiêu của diễn biến hòa bình về văn hóa truyền thống là tập trung chuyên sâu phá hoại truyền thống lịch sử văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, văn hóa truyền thống cách mạng, những chuẩn mực đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa. Dùng nhiều giải pháp để những loại sản phẩm văn hóa truyền thống ô nhiễm xâm nhập vào quần chúng, đặc biệt quan trọng là thế hệ người trẻ tuổi, làm quy đổi giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật, quy đổi những thang bậc giá trị đạo đức của xã hội theo khunh hướng xấu ; biến thế hệ trẻ thành công cụ và lực lượng xã hội hầu hết của diễn biến hòa bình. [ 30 ]

“Diễn biến hòa bình về văn hóa” là biện pháp âm thầm nhưng hậu quả mà nó gây ra lại lâu dài nhất. Đánh vào văn hóa chính là đánh vào tương lai của cả dân tộc. Kinh tế hoặc chính trị suy thoái thì có thể khôi phục lại sau vài năm, còn văn hóa – đạo đức suy đồi thì phải mất nhiều thế hệ mới khôi phục được, thậm chí không bao giờ khôi phục lại được. Một dân tộc mất đi bản sắc văn hóa, con người sống không có đạo đức, không tôn trọng chuẩn mực xã hội, văn hóa trở nên lai căng thì dân tộc đó cũng sẽ sớm suy tàn hoặc sẽ bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại lai.

Một số trường hợp nổi bật

Diễn biến hòa bình tại Liên Xô

Tại Liên Xô, phương Tây đã thành công xuất sắc trong việc cài cắm những nhân vật có tư tưởng sùng bái phương Tây nắm quyền tại những cơ quan truyền thông online, báo chí truyền thông, tuyên truyền lớn của quốc gia. Ví dụ, từ 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của những tờ báo có tác động ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được sửa chữa thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “ Tây hóa ”, từ đó những tờ báo này đã gây khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người ngộ nhận và ảo tưởng so với chủ nghĩa tư bản phương Tây, tạo tiền đề để gây sự bất mãn trong nhân dân, khiến họ quay sang công kích chủ nghĩa xã hội. Năm 1959, lần tiên phong có 4 cán bộ của Liên Xô sang học ở Mỹ, 2 trong số đó là A. Yakovlev, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng đảm nhiệm công tác làm việc tư tưởng-lý luận và tướng tình báo C. Danilovich về sau đã có liên hệ với tình báo Mỹ ( CIA ) [ 31 ]Đến thập niên 1980, những nước phương Tây mở màn hỗ trợ vốn xây dựng một loạt những tổ chức triển khai phi chính phủ ở Liên Xô. Các tổ chức triển khai phi chính phủ này ra sức truyền bá tư tưởng, lối sống và văn hóa truyền thống phương Tây để ảnh hưởng tác động tới tư tưởng văn hóa truyền thống, đạo đức của dân cư Liên Xô [ 32 ]. Về mặt tiếp thị quảng cáo, thứ nhất là phá vỡ sự chỉ huy của Đảng và Nhà nước Liên Xô với mạng lưới hệ thống tiếp thị quảng cáo – báo chí truyền thông, tiếp đó là đòi xây dựng những nhà xuất bản tư nhân, báo chí truyền thông tư nhân, thu hẹp quyền lực tối cao của nhà nước trong những hoạt động giải trí xã hội [ 33 ] .

Tháng 1/1987, Gorbachev đề xướng phong trào xét lại lịch sử Liên Xô, các nhà báo thân phương Tây được cài cắm trong các cơ quan báo chí lập tức viết hàng loạt bài công kích: công nghiệp hóa đất nước của Stalin là “vô tích sự”, phóng đại sai sót của Stalin thời kỳ đầu chiến tranh, thậm chí phủ nhận thắng lợi của chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Sau đó, việc phê phán Stalin dần dần chuyển sang phê phán, phủ định thành quả của Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa Marx – Lenin. Các loại ấn phẩm, phát thanh truyền hình quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, mặt trận báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô dần bị “đánh chiếm”, tư tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp Cách mạng sụt giảm nghiêm trọng, trong khi những luận điệu phê phán dù vô căn cứ lại được coi là chân lý. Kết quả là trong lúc nguy cấp, đã không còn ai đứng lên để bảo vệ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Năm 1994, nhà văn Yuri Boldarev khi nhìn lại tình cảnh của thời kỳ này đã nói: “Trong sáu năm, báo chí Liên Xô đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội Đức Quốc xã tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta vào những năm 1940. Quân đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng thiếu một thứ, đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân dân”[34].

Diễn biến hòa bình trên nghành nghề dịch vụ báo chí truyền thông – tư tưởng ở Liên Xô cuối thập niên 1980 bộc lộ qua những mặt sau [ 35 ] :

  • Thứ nhất: Đảng dần mất đi sự kiểm soát với truyền thông, báo chí và giới lý luận. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội trên báo chí mà không bị ngăn chặn và xử lý.
  • Thứ hai: các “tổ chức phi chính phủ” xuất hiện rất nhiều (hơn 30.000 tổ chức vào năm 1987), trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xô.
  • Thứ ba: Làn sóng xét lại lịch sử, phủ định lịch sử ở Liên Xô lan rộng. Tháng 6/1988, báo Tin tức công khai đăng bài chỉ trích bộ giáo trình Lịch sử Liên Xô đang được giảng dạy trong trường học, rồi sau đó chính ngành giáo dục cũng bãi bỏ giáo trình này. Đến cuối năm 1988, có những tờ báo báo công khai xét lại, phủ nhận vai trò của Cách mạng Tháng Mười.

Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết đơn xin nghỉ hưu vì tin rằng đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa. Đây chính là sai lầm của những người cộng sản trung thành trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong ba năm 1987-1989, khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch – chiến lược và 30% tướng lĩnh bị cách chức hoặc loại khỏi quân đội với lý do “tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ cải tổ”, thay thế họ là những phần tử “cấp tiến”. Từ năm 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa” của Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người dân ảo tưởng vào phương Tây[36]

Việc trấn áp báo chí truyền thông, truyền thông online bị buông lỏng, dẫn tới việc báo chí truyền thông Liên Xô bị tài lộc và quyền lợi thương mại chi phối vào cuối thập niên 1980, những tờ báo đua nhau khai thác những yếu tố gây sốc như tình dục, đấm đá bạo lực … Ngay cả một số ít tờ báo giàu truyền thống lịch sử như báo Đoàn viên người trẻ tuổi cộng sản Mátxcơva cũng trở thành ” báo lá cải vỉa hè “, tiếp tục đăng những nội dung tình dục, loạn luân nhằm mục đích lôi cuốn fan hâm mộ. Trên truyền thông online Open những quan điểm đòi mở nhà chứa và hợp pháp hóa mại dâm, có người thậm chí còn công khai minh bạch yêu cầu thành phố Mátxcơva dành riêng một ” khu đèn đỏ ” để tổ chức triển khai mại dâm công khai minh bạch. Dưới tác động ảnh hưởng của thị trường và cám dỗ vật chất, báo chí truyền thông, truyền hình, phát thanh cũng như những nhà xuất bản đua nhau theo đuổi doanh thu, không những quên đi nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị, thậm chí còn mất đi cả lương tâm xã hội. Các tác phẩm học thuật trang nghiêm thì gần như vắng bóng, chỉ được in ấn nội bộ để trao đổi trong khoanh vùng phạm vi hẹp [ 37 ] .Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn vất vả thử thách và đã vượt qua toàn bộ : Năm 1917, 35 vạn đảng viên đã chỉ huy giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, cùng nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước để bảo vệ thành công xuất sắc cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân thắng lợi phát xít Đức trong cuộc cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, chỉ huy công cuộc kiến thiết xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường. Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ, không phải do quân địch bên ngoài, mà chính là do những mầm mống diễn biến, tự diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng [ 31 ] .

Từ thập niên 2000 tới nay

Tiếp sau sự sụp đổ của Liên Xô là sự tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đến thập niên 2000, các cuộc “cách mạng sắc màu” – một dị bản của “diễn biến hoà bình” có kết hợp với yếu tố bạo loạn lật đổ – cũng được thực hiện thành công ở một loạt các nước. Mặc dù có những điểm không giống nhau, nhưng “cách mạng đường phố”, “cách mạng Nhung”, “cách mạng Cam”, Mùa xuân Ả Rập… đều có điểm chung: tiến hành lật đổ chính quyền thông qua biểu tình. Theo Đại tá, PGS – TS Văn Đức Thanh, đây là những cuộc đảo chính lật đổ chính quyền theo kiểu dùng “bạo lực đường phố”, sử dụng quần chúng địa phương bị kích động bởi những trung tâm quyền lực từ bên ngoài[26].

Mùa xuân Ả Rập hoặc những cuộc “ cách mạng sắc màu ” hồi năm 2010 có những điểm chung là [ 38 ] :

  • Đều nhằm thay đổi chế độ cầm quyền: Nếu các cuộc “cách mạng sắc màu” ở Đông Âu mượn cớ phản đối sự “gian lận trong bầu cử tổng thống” để giành chính quyền thì “Mùa xuân A-rập” xuất phát từ các khủng hoảng kinh tế – xã hội.
  • Phương pháp đều dựa trên cơ sở luận thuyết chính trị mang tên “đấu tranh phi bạo lực” (biểu tình đông người, bất tuân dân sự…) mà tác giả là Gene Sharp, một chuyên gia chính trị nổi tiếng ở Mỹ. Nội dung luận thuyết này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và phổ biến tới nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, “đấu tranh phi bạo lực” chỉ là giai đoạn ban đầu, sau đó các lực lượng đối lập sẽ thực hiện bạo loạn loạt đổ hoặc chiến tranh quân sự quyết liệt nhất nếu thấy cần thiết, đẩy đất nước vào nội chiến hoặc bị quân đội nước ngoài tấn công.
  • Các nhà tổ chức các cuộc “cách mạng sắc màu” ở Gruzia, “cách mạng cam” ở Ucraina và Mùa xuân Ả Rập ở các nước Bắc Phi và Trung Đông… là các cơ quan tình báo của các nước phương Tây, các tổ chức phi chính phủ, các “quỹ tài trợ dân chủ”, các tổ chức xã hội dân sự… thậm chí cả các lực lượng đặc nhiệm từ bên ngoài có chức năng huấn luyện chiến thuật quân sự cho các lực lượng đối lập để nếu cần, các lực lượng đối lập có thể sử dụng chiến tranh để lật đổ chính phủ. Trên thực tế, nhiều cuộc chính biến ở Đông Âu, Trung Đông đã chuyển từ “phi bạo lực” ban đầu sang chiến tranh quy mô lớn (nội chiến Syria, nội chiến Ucraina, nội chiến Libya, nội chiến Yemen…)

Diễn biến hòa bình tại Nước Ta lúc bấy giờ

Diễn biến về văn hóa truyền thống – xã hội

Các nhóm xã hội dân sự trên mạng đang dần gây ảnh hưởng tác động tới 1 số ít chủ đề ít nhạy cảm. [ 39 ]Khi thiết kế xây dựng Bộ Luật Dân sự năm năm ngoái, viện ISEE đã triển khai hoạt động hiên chạy dọc so với nhiều cơ quan Nhà nước, đại biểu QH để luật này được cho phép triển khai việc quy đổi giới tính. Đây là lần tiên phong một tổ chức triển khai phi chính phủ do phương Tây hỗ trợ vốn đã thành công xuất sắc trong việc trực tiếp tham gia vào việc biên soạn luật và tác động ảnh hưởng đến lá phiếu của đại biểu QH, để từ đó ” dẫn hướng ” những chủ trương pháp lý Nước Ta theo ý muốn của phương Tây. [ 40 ] .

Diễn biến trong báo chí truyền thông – truyền thông online

Từ những năm 2000, báo chí – truyền thông ở Việt Nam dần bị buông lỏng quản lý, dẫn tới hiện tượng nhiều cơ quan báo chí Việt Nam bị tiền bạc và lợi ích thương mại chi phối. Khuynh hướng “thương mại hóa” báo chí diễn biến theo chiều hướng ngày càng trầm trọng, phức tạp. Biểu hiện “thương mại hóa” dễ nhận thấy nhất là nhiều cơ quan báo chí chỉ quan tâm phục vụ những thị hiếu thấp kém, tầm thường, họ tập trung đưa các tin, bài mang tính giật gân, câu khách, mô tả tội ác một cách thái quá, chú trọng đến các vụ việc rùng rợn, nội dung khêu gợi, dung tục…. Hậu quả là sự “lá cải hóa” chất lượng nội dung thông tin, hạ thấp tính chính trị – văn hóa – khoa học của báo chí, thiếu quan tâm đến tính giáo dục, gây hậu quả, tác động xấu đối với cộng đồng. Nhiều cơ quan báo chí, đài truyền hình, nhà xuất bản còn lợi dụng việc “liên kết sản xuất, liên kết xuất bản” để ngấm ngầm “bán bài, bán sóng”, tức là nhận tiền rồi giao luôn trách nhiệm kiểm soát cho các tổ chức, cơ sở kinh doanh tư nhân để họ tự tổ chức in ấn, phát hành sách, trình chiếu chương trình truyền hình. Hậu quả của sự “thương mại hóa” này rất nghiêm trọng, đó là sự đánh mất trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, văn hóa đối với nhân dân; các cơ quan báo chí dần rơi vào sự khống chế của tư nhân, khiến báo chí – truyền thông dần bị “tư nhân hóa”; làm đánh mất vai trò quản lý, giám sát của cơ quan chủ quản, sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.[41]

Tự diễn biến

Nền kinh tế thị trường đầy cám dỗ vật chất rất dễ khiến con người sa vào chủ nghĩa cá thể ích kỷ, thực dụng, tham nhũng, tiêu tốn lãng phí ; làm ngày càng tăng những tệ nạn xã hội như hối lộ, ma túy, mại dâm ; cán bộ trở nên quan liêu, xa dân, sống xa hoa hưởng lạc. Nó cũng sẽ thôi thúc quy trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội và ngay cả trong Đảng, thôi thúc ” tự diễn biến ” ngay trong nội bộ Đảng. Tại Hội nghị cán bộ toàn nước không cho và tiến hành Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI ) về kiến thiết xây dựng Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ :

“Thời gian gần đây các làn sóng chống đối ta về mặt tư tưởng chính trị lại rộ lên, có lúc dồn dập… Nước ta bên cạnh những thành tựu lớn cũng xuất hiện những khó khăn và thách thức mới, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, hối lộ, ma túy, mại dâm… tiếp tục gia tăng, sự phân hóa giàu nghèo phát triển”[42]
“Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống xa cách người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức Phơ-bách đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là Đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”[43]

Theo Báo Quân đội nhân dân thì: “Điều họ muốn là dân tộc Việt Nam từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Họ muốn xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng luôn hoàn thành xuất sắc vai trò lãnh đạo suốt gần 80 năm qua. Đó chính là mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” mà họ cho rằng là nỗi lo sợ quái gở”.[44]

Ông Phan Xuân Biên viết trên Tạp chí Tuyên giáo ngày 10-4-2009: Bên cạnh dòng tư tưởng chủ đạo là ý thức độc lập dân tộc cao, ý chí tự lực tự cường, kiên trì xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, tạo ra những thách thức, nguy cơ về an ninh tư tưởng. Hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch ngày càng quyết liệt về cường độ; toàn diện về nội dung; đa dạng về phương pháp, hình thức, rộng rãi về lực lượng, thường xuyên về thời gian và ngày càng công khai, tinh vi

“Chúng lợi dụng triệt để bối cảnh quốc tế và trong nước, nhất là tình hình xã hội như tranh chấp, khiếu kiện, đình công; quan liêu, tham nhũng, lãng phí; những vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ, nhân quyền và bằng mọi ngả đường để thực hiện âm mưu nhất quán là nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta – chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đi đến làm suy yếu và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN, đưa nước ta theo con đường TBCN (Tư bản Chủ nghĩa). Dù chưa đạt được âm mưu cuối cùng nhưng các hoạt động “diễn biến hoà bình” kết hợp với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động đến tư tưởng của một số cán bộ đảng viên, tạo nên sự tự diễn biến “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và xã hội với xu hướng ngày càng phức tạp”. [25]

Năm 2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, trong đó cảnh báo về sự nguy hiểm của suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, trong đó có đoạn: “…sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.”[45]

Chủ trương của chính phủ Việt Nam là phải “cảnh giác, đề phòng, và chủ động đối phó, tấn công vào các cáo buộc sai lệch về Việt Nam, vô hiệu hóa các vũ khí, công cụ, chiêu bài chính trị, đặc biệt là các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, các vấn đề cao đẹp đã bị lợi dụng làm chiêu bài. Chống lại mục đích chuyển hóa, lật đổ, và thay thế các chế độ xã hội chủ nghĩa của Hoa Kỳ và các nước tư bản phương Tây“.[46] Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam coi diễn biến hòa bình là một trong bốn nguy cơ với Đảng. Pháp luật của Việt Nam có các tội hình sự như “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” hoặc “Âm mưu lật đổ Nhà nước CHXHCN Việt Nam” để đối phó với nguy cơ Diễn biến hòa bình.

Trong quy trình hội nhập quốc tế, Nước Ta không có lựa chọn nào khác là kiến thiết xây dựng quan hệ kinh tế tài chính, chính trị và bảo mật an ninh với những nước Tư bản Chủ nghĩa mà trước kia từng coi là quân địch, là tác giả của Diễn biến hòa bình, như Mỹ, Liên minh châu Âu ( EU ). Chính thế cho nên, một mặt vẫn tuyên truyền trong nước về sự nguy hại của Diễn biến hòa bình, mặt khác, chính phủ nước nhà Nước Ta mềm mỏng trong quan hệ ngoại giao và không phát ngôn đơn cử về Diễn biến hòa bình. nhà nước Nước Ta chỉ phát ngôn chung chung, không nêu rõ ai là tác giả của những hoạt động giải trí Diễn biến hòa bình. [ 47 ] Nước Ta cũng không làm rạch ròi như trước thế nào là chủ nghĩa đế quốc và ai là quân địch của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nhà nước Nước Ta cũng thực thi ” tự do hóa về kinh tế tài chính “, triển khai từng bước ” dân chủ hóa về chính trị “, thiết kế xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, sau một số ít ” Cách mạng sắc màu ” diễn ra tại những nước Đông Âu, dẫn tới sự không ổn định và sụp đổ của nhiều chính sách chính trị tại 1 số ít nước, Nước Ta trở nên quan ngại hơn. nhà nước Việt nam coi việc giải quyết và xử lý thế nào để vẫn giữ được truyền thống dân tộc bản địa và độc lập tự chủ của quốc gia là yếu tố lớn mà việt nam cần phải làm [ 48 ]

Chủ trương của chính quyền sở tại những nước

Trung Quốc

Ngay từ thập niên 1960, Chủ tịch Trung Quốc là Mao Trạch Đông đã cảnh báo rằng các nước phương Tây sẽ thực hiện diễn biến hòa bình thông qua việc tài trợ cho các du học sinh để đào tạo các phần tử có tư tưởng thân phương Tây, ủng hộ văn hóa phương Tây, rồi sau đó nhóm này sẽ về nước và thâm nhập vào hệ thống chính trị, báo chí, truyền thông, từ đó dần làm biến chất Đảng Cộng sản Trung Quốc từ bên trong. Ông nói: “Chủ nghĩa đế quốc gửi gắm tham vọng diễn biến hòa bình vào thế hệ thứ ba, thứ tư của chúng ta, phải đặc biệt cảnh giác những kẻ dã tâm và những kẻ có mưu đồ cá nhân muốn tiếm quyền lãnh đạo của Đảng và Nhà nước”[27]

Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong tuyên bố đầu năm 2012 của mình nhắc nhở các thành viên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc cẩn thận với “diễn biến hòa bình”, kêu gọi các biện pháp tích cực chống lại “sự thâm nhiễm về văn hóa và tư tưởng của các thế lực thù địch”.[4] Tuyên bố của ông Hồ Cẩm Đào cho thấy sự xiết chặt kiểm soát an ninh tư tưởng trong thời gian tới tại Trung Quốc. Tồn tại qua “hiệu ứng domino” từ sự sụp đổ của khối Xã hội chủ nghĩa những năm cuối thập kỷ 1980, đầu thập kỷ 1990, Đảng Cộng sản Trung Quốc một lần nữa được cảnh báo về mối đe dọa diễn biến hòa bình từ Cách mạng Hoa Nhài hay phong trào Mùa xuân Ả Rập tại Trung Đông và Bắc Phi. Theo một biên tập viên tại Hồng Kông, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng thấy khó khăn để duy trì sự ổn định của hệ thống chính trị tại Trung Quốc, khi tiếng nói đối lập ngày càng nhiều.[4]

Trong khi tư tưởng ” diễn biến hòa bình ” được xem là những tư tưởng thù nghịch ở Trung Quốc, những nhà quan sát cho là một vài quan chức hạng sang trong mạng lưới hệ thống đảng cộng sản Trung Quốc như Ôn Gia Bảo đã ủng hộ quy trình này. Những viên chức này, tuy nhiên, chỉ là một thiểu số của đảng cộng sản. [ 49 ]

Về mặt văn hóa – xã hội, Chính phủ Trung Quốc kiểm duyệt chặt chẽ mọi nội dung được cho là sẽ gây tác động xấu, làm băng hoại văn hóa truyền thống và đạo đức của đất nước. Ủy ban về Báo chí, Xuất bản, Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình Trung Quốc hoạt động rất mạnh tay trong lĩnh vực an ninh văn hóa. Tất cả những bộ phim Trung Quốc không bao giờ được phép xuất hiện những cảnh quay mô tả hoạt động quan hệ tình dục, khỏa thân. Các mối quan hệ và hành vi bất thường như loạn luân, đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng tính, ấu dâm cũng bị cấm hoặc phải cắt bỏ mọi cảnh quay liên quan.[50] Chính phủ Trung Quốc cũng cấm tất cả các nội dung về đồng tính luyến ái được xuất hiện trên sóng phát thanh truyền hình, như là một phần của chính sách chống lại những nội dung “thô tục, vô đạo đức và không lành mạnh”[51]. Cảnh sát Trung Quốc giám sát chặt những hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, và họ sẽ giải tán những hoạt động đó nếu phát hiện ra chúng có ý đồ cổ vũ đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính[52]

Trung Quốc cũng kiểm soát chặt các nội dung trên internet. Hiệp hội dịch vụ Netcast Trung Quốc có thẩm quyền kiểm duyệt các nội dung trực tuyến, mọi nội dung hiển thị hành vi tình dục, giới tính bất thường, bao gồm loạn luân, đồng tính luyến ái, lạm dụng tình dục, chuyển đổi giới tính… Các quy định khác cũng nêu rõ nội dung sẽ bị xóa bỏ nếu khuyến khích “lối sống xa hoa thác loạn”, đăng “chi tiết cảnh bạo lực và tội ác” hoặc “hành vi khiêu dâm” bao gồm cả thủ dâm. Tất cả những phim ảnh, bài báo vi phạm quy định này đều sẽ bị gỡ bỏ khỏi Internet. Quy định này đã được ban hành năm 2017, sau khi chính phủ Trung Quốc nhận định sự xuất hiện dày đặc của các bộ phim về đồng tính luyến ái trên Internet đã làm băng hoại giới trẻ Trung Quốc bởi nội dung gây suy đồi đạo đức và văn hóa gia đình[50].

Nga

Theo báo Pravda của Nga, Quỹ Dân chủ Mỹ (NED – National Endowment for Democracy) đã thâm nhập vào diễn biến chính trị ở Nga hiện nay, giúp đỡ “trung tâm tin tức quốc tế” đặt tại Moskva để hơn 80 tổ chức phi chính phủ xuyên quốc gia có thể tận dụng “trung tâm tin tức” này để tổ chức họp báo về các vấn đề. Tổ chức này cũng tài trợ cho nhiều tổ chức thanh niên và các buổi thảo luận dưới nhiều hình thức khác nhau với mục đích “bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo mới cho đất nước Nga”. Chỉ trong năm 2010, NED tiêu tốn 278.300 USD để tài trợ cho hàng chục chương trình như thế này trên khắp đất nước Nga. Theo học giả người Mỹ Frederick William Engdahl thì “Washington không muốn Moscow xuất hiện kẻ mạnh. Sự trở lại của Putin sẽ trở thành chướng ngại lớn nhất của Mỹ và châu Âu… Đối với Washington, nước Nga có dân chủ thật sự hay không không quan trọng. Quan trọng nhất là phải lật đổ chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản kế hoạch của Mỹ – Putin”.[53]

Chính phủ Nga cảnh báo việc Mỹ tiếp tục tài trợ cho các tổ chức phi chính phủ tại Nga đang gây ảnh hưởng tới quan hệ giữa hai bên, nhất là Mỹ đang áp dụng sách lược cứng rắn trên các vấn đề liên quan đến lợi ích của Nga như vấn đề Iran và Syria.[54] Thứ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ryabkov nói với hãng thông tấn Interfax: “Hành động này đến mức trở thành một vấn đề trong quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi thực sự quan ngại về việc Washington tài trợ cho các nhóm và phong trào nhất định tại Nga”.[55]

Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đề ra luật cấm tuyên truyền về đồng tính luyến ái để ngăn ngừa văn hóa truyền thống lai căng phương Tây làm băng hoại truyền thống cuội nguồn đạo đức của quốc giaNăm 2006, nhà nước Nga đã quyết định hành động cấm hoạt động giải trí tổ chức triển khai Giám sát nhân quyền, Ân xá quốc tế, Viện Cộng hòa quốc tế … cùng hơn 90 tổ chức triển khai phi chính phủ ( NGO ). Một trong những nguyên do chính là sự can thiệp vào nội bộ Nga của vài tổ chức triển khai thuộc NGO. Tuy gọi là “ phi chính phủ ” nhưng những tổ chức triển khai thuộc dạng này ngày càng liên hệ ngặt nghèo với cơ quan chính phủ nhiều nước. Tờ The Economist đã đưa ra câu hỏi rằng liệu có phải 1 số ít tổ chức triển khai NGO là bù nhìn của ( một số ít ) cơ quan chính phủ. Một nguyên do chính của hiện tượng kỳ lạ bùng nổ NGO trong vài năm gần đây ở Nga là sự hỗ trợ vốn từ những chính phủ nước nhà phương Tây. Các tổ chức triển khai phi chính phủ này đang ngày càng can thiệp sâu vào đời sống văn hóa truyền thống – chính trị nước Nga ( hiện hữu trong những chiến dịch tranh cử, tạo ra trào lưu cổ súy đồng tính luyến ái, hôn nhân gia đình đồng tính … ) chứ không đơn thuần là hoạt động giải trí nhân đạo

Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về hôn nhân đồng giới[56]. Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ cho người đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin “tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới” cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực mới nhằm cổ vũ những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại chủ nghĩa tự do kiểu phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu[57] Bộ luật cấm tuyên truyền đồng tính đã được Duma Quốc gia Nga (Hạ viện Nga) thông qua với số phiếu tuyệt đối 436 thuận – 0 phiếu chống, và 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm[58] Bên cạnh đó, từ năm 2015, Chính quyền thành phố Moskva và quốc hội Nga đã đề ra Ngày tình yêu gia đình để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các tổ chức phi chính phủ đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính[59].

Tổng thống Nga Vladimir Putin lý giải: “Vấn đề đồng tính luyến ái ở Nga đã được cố tình phóng đại từ bên ngoài vì những lý do chính trị, và tôi tin rằng, đó không phải là vì những mục đích tốt… Tôi tin rằng chúng ta phải để trẻ em sống trong yên bình. Trẻ em muốn sống trong một cuộc hôn nhân tự nhiên bình thường hay là một cuộc hôn nhân đồng tính? Đó là điều duy nhất tôi muốn nói”[60] Ông Putin cho biết chính sách cấm tuyên truyền về đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng tính là vấn đề quan trọng cho việc duy trì sức mạnh của nước Nga, chống lại sự suy đồi về văn hóa làm tan vỡ luân lý gia đình: “Chúng tôi có sự lựa chọn cho riêng chúng tôi (nước Nga), và chúng tôi đã làm thế (cấm tuyên truyền đồng tính) vì đất nước của chúng tôi”[61].

Một số quan điểm của phương Tây

Các nước phương Tây [ 62 ] và những tổ chức triển khai nhân quyền, cũng như 1 số ít tổ chức triển khai quốc tế ( thuộc khối Liên Âu [ 63 ] và Liên hiệp quốc ) vẫn phê phán những hoạt động giải trí trấn áp lực lượng trái chiều của nhà nước Nước Ta, coi đây là ” vi phạm nhân quyền “, vi phạm ” quyền tự do tư tưởng ” và ” tự do ngôn luận “. [ 64 ]

Nhà bình luận toàn cầu (globalist) Roger Cohen của tờ New York Times viết rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam xác định kẻ thù số một là Diễn biến hòa bình.

Họ không sợ một cuộc cách mạng long trời lở đất mà sợ sự xâm nhập, mưa lâu thấm đất (drip) của nền dân chủ tự do. Ổn định được coi là giá trị trên hết nhưng các nhân vật trong Bộ Chính trị “vẫn mất ngủ vì Diễn biến hòa bình”.[65]

Dù vậy Cohen cho rằng, Việt Nam không hẳn là “phi tự do” (un-free) tới mức công dân của họ phải “ngứa ngáy tìm tự do”. Sự kết hợp kinh tế thị trường với chủ nghĩa dân tộc đang thắng thế. Khi tầng lớp trung lưu của Việt Nam và Trung Quốc trở nên hiểu biết đòi hỏi hơn, họ sẽ đòi hỏi nhiều hơn từ phía Chính phủ. Họ sẽ muốn sự minh bạch, pháp luật rõ ràng, hệ thống y tế tốt hơn, tham nhũng ít hơn, tự do ngôn luận nhiều hơn và ít giới hạn “red lines” hơn. Nhà nước một đảng sẽ phải chịu áp lực rất lớn để đáp ứng các yêu cầu đó. Một phần tư thế kỷ nữa, sẽ có nhiều tự do và dân chủ hơn ở Hà Nội và Bắc Kinh, và rằng “nước Mỹ hãy kiên nhẫn” nếu muốn “truyền bá các tư tưởng tự do dân chủ” tới các nước này.[66]

Riêng về giáo dục, đại sứ Mỹ Michael W. Michalak phát biểu năm 2010 tại Việt Nam phủ nhận những ý kiến cho rằng đổi mới giáo dục mà Việt Nam đang tiến hành là do sức ép của Mỹ và là một phần diễn biến hòa bình. Ông cho rằng:

…Lãnh đạo Việt Nam, kể cả những người ở cấp cao nhất, khi nói chuyện đều nói với tôi rằng họ đánh giá rất cao nền giáo dục của Mỹ, đánh giá cao sự hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực giáo dục, và tôi không thể tán thành quan điểm cho rằng đây là hoạt động diễn biến hòa bình… Ở Hoa Kỳ bản thân chính phủ cũng bị người dân chỉ trích, hoặc người dân ngoài Hoa Kỳ chỉ trích, những quan điểm của họ có lúc đúng có lúc sai, nhưng mà chúng tôi tôn trọng những quan điểm đó, chúng tôi nghĩ rằng sự đối thoại giữa các bên rất quan trọng.[67]

Ý kiến từ những nhân vật sự không tương đồng chính kiến tại Nước Ta

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu chính trị hạng sang của Viện Nghiên cứu Khu vực Đông Nam Á ( ISEAS ) của Nước Singapore cho là mối quan ngại về ‘ tự diễn biến ‘ và ‘ diễn biến hòa bình ‘ trong giới chỉ huy Đảng Cộng sản Việt Nam là ” một tư duy theo lối mòn ” [ 1 ]

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đặt câu hỏi: “Và cả một chiến sách “chống diễn biến hòa bình” không mệt mỏi. Hòa bình ai chả muốn. Vậy mà lâu nay tôi vẫn không hiểu tại sao lại “chống diễn biến hòa bình”? Có từ gì hay hơn, rõ hơn không? Nếu chống những người âm mưu phản bội lại dân tộc thì cũng nên nói rõ ra, chứ cứ nói lờ mờ thế thật khó mà hiểu nổi.“.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc cho rằng: “Lâu nay khi nói đến chống diễn biến hòa bình chúng ta thường chỉ chú ý nhìn về phía tây, phía các nước đế quốc thù địch cũ. Thế là chệch hướng rất tai hại, là mất cảnh giác rất nghiêm trọng, một sự mất cảnh giác chiến lược… Trước hết phải vạch ra cho cụ thể, dứt khoát: trong các thế lực thù địch hiện nay, thì thế lực nào là nguy hiểm nhất? Câu trả lời đã rõ như ban ngày: đó là thế lực bành trướng hiện đại trong giới cầm quyền Trung Quốc, chứ không phải những thế lực từ phương tây hay từ cộng đồng người Việt hải ngoại.“[68]

Xem thêm

Chú thích

Liên kết ngoài

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories