Di truyền học biểu sinh – Wikipedia tiếng Việt

Related Articles

Cơ chế di truyền học biểu sinh

Di truyền học biểu sinh, còn có tên gọi là Ngoại di truyền học là một ngành sinh học, trong đó đề cập đến các câu hỏi về các yếu tố xác định hoạt động của một gen và do đó nhất thời sự phát triển của các tế bào. Nó xem xét sự thay đổi trong chức năng gen, mà không phải là do đột biến (không có sự thay đổi nào trong chuỗi DNA của bộ gene) mà vẫn truyền cho các tế bào con.

Nó dựa trên những biến hóa trong nhiễm sắc thể, tác động ảnh hưởng đến hoạt động giải trí của những đoạn hoặc hàng loạt nhiễm sắc thể, được gọi là sự đổi khác biểu sinh. [ 1 ] Trình tự DNA tuy nhiên không đổi khác. Những đổi khác này hoàn toàn có thể là trong quy trình metyla hóa DNA, trong sự đổi khác của histon hoặc sự thoái hóa nhanh gọn của nhiễm sắc thể cuối. Những đổi khác này hoàn toàn có thể được quan sát thấy trong kiểu hình, nhưng không có trong kiểu gen ( trình tự DNA ). [ 2 ]

Dự án di truyền học biểu sinh lớn nhất thế giới với tên gọi TwinsUK do các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu gen Hoa Đại (Trung Quốc) và Học viện Hoàng gia Anh cùng phối hợp thực hiện, với tổng kinh phí lên tới 20 triệu bảng Anh, đã được khởi động ngày 6/9/2010[3].

Di truyền biểu sinh giữa những thế hệ[sửa|sửa mã nguồn]

Cơ thể con người được tạo nên không chỉ từ tập hợp những gen. Các chính sách di truyền biểu sinh ( epigenetics ) được xác lập bởi những yếu tố môi trường tự nhiên như thể chính sách ăn, bệnh tật, lối sống bộc lộ một vai trò quan trọng trong điều hòa DNA bằng cách bật tắt những gen [ 4 ] .

Các nhà nhiên cứu tại Viện miễn dịch và di truyền biểu sinh Max Planck[5], Freiburg (Đức) cho thấy bằng chứng quan trọng rằng không chỉ có DNA mà cả các cấu trúc di truyền ngoại gen cũng tham gia vào điều hòa biểu hiện gen ở thế hệ con cái. Hơn nữa, những hiểu biết mới bởi Phòng thí nghiệm của Nicola Iovino mô tả lần đầu tiên hệ quả sinh học của thông tin di truyền này. Nghiên cứu chứng minh rằng trí nhớ di truyền biểu sinh của mẹ là cần thiết cho sự phát triển và tồn tại của thế hệ tiếp theo.

Nicola Iovino và nhóm của mình tại Max Planck đã sử dụng ruồi giấm để khám phá cách biến đổi biểu sinh được truyền từ mẹ sang phôi. Nhóm nghiên cứu tập trung vào một sửa đổi cụ thể được gọi là H3K27me3 cũng có thể được tìm thấy ở người. Nó làm thay đổi cái gọi là chromatin, bao bì của DNA trong nhân tế bào và chủ yếu liên quan đến việc kìm hãm biểu hiện gen.

Các nhà nghiên cứu Max Planck phát hiện ra rằng sửa đổi H3K27me3 ghi nhãn DNA nhiễm sắc thể trong tế bào trứng của mẹ vẫn còn sống sót trong phôi sau khi thụ tinh, ngay cả khi những tín hiệu biểu sinh khác bị xóa. Fides Zenk, tác giả tiên phong của nghiên cứu và điều tra cho biết : ” Điều này chỉ ra rằng người mẹ truyền lại dấu ấn biểu sinh của mình cho con cháu. Nhưng chúng tôi cũng chăm sóc, nếu những tín hiệu đó đang làm điều gì đó quan trọng trong phôi thai “. [ 6 ]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các bài đơn lẻ[sửa|sửa mã nguồn]

More on this topic

Comments

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Advertismentspot_img

Popular stories